Thông điệp Tin Giáo hội 

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 nhân Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 nhân Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi

VATICAN. Chúa nhật thứ tư Phục Sinh, 29-4-2012 tới đây là Ngày Thế giới cầu cho Ơn Gọi lần thứ 49, với chủ đề ”Ơn gọi, hồng ân tình thương của Thiên Chúa”.

Tình hình ơn gọi trong Giáo Hội vừa mừng vừa lo: mừng vì sự gia tăng tại các Giáo Hội trẻ, nhưng tại các Giáo hội Kitô kỳ cựu, ơn gọi tiếp tục giảm sút, nhất là nơi các dòng tu.

Thực vậy, theo niên giám 2012 của Tòa Thánh mới công bố ngày 10-3 vừa qua, số tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới tiếp tục gia tăng, lên tới 1 tỷ 200 triệu người, nhưng nhân sự của Giáo Hội, số các LM tuy có phần gia tăng nhưng chậm hơn nhiều, không đủ đáp ứng nhu cầu của các tín hữu. Đáng lo nhất là số nữ tu tiếp tục giảm sút trầm trọng: năm 2010 có gần 722 ngàn chị (721,935) tức là giảm mất 7.436 chị. Trong 40 năm qua, số nữ tu của Giáo Hội giảm mất một nửa: từ gần 1,4 triệu xuống còn hơn 700 ngàn như hiện nay. Riêng tại Hoa Kỳ, cách đây 40 năm có 119 ngàn nữ tu, nhưng nay chỉ còn lại 57 ngàn chị, tức là gần một nữa.

Số chủng sinh gia tăng những vẫn còn quá ít ỏi so với nhu cầu lớn lao của Giáo Hội, chẳng những trong việc mục vụ cho các tín hữu và nhất là đối với công trình đẩy mạnh việc rao giảng Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa.

Như mọi năm, ĐTC đều cho công bố một sứ điệp để giúp các tín hữu đào sâu ý nghĩa của Ngày này và quảng đại góp phần vào việc khơi dậy, hướng dẫn và nuôi dưỡng ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến trong Giáo Hội. Ngài đặc biệt kêu gọi các vị mục tử và các thành phần khác của Giáo Hội hãy ân cần lắng nghe những người cảm thấy tiếng Chúa gọi sống đời LM hoặc đời sống thánh hiến, và tạo điều kiện cho các ơn gọi ấy được triển nở. Sau đây là nguyên văn Sứ điệp của ĐTC. Ngài viết:

”Ơn gọi, hồng ân tình thương của Thiên Chúa”

Anh chị em thân mến,

Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 49, sẽ được cử hành vào ngày 29-4-2012, Chúa nhật thứ tư Phục Sinh, mời gọi chúng ta suy tư về đề tài: ”Ơn gọi, hồng ân tình thương của Thiên Chúa”.

Nguồn mạch của mỗi hồng ân hoàn hảo là Thiên Chúa Tình Thương – Deus caritas es -: ”ai ở trong tình thương thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy” (1 Ga 4,16). Kinh Thánh kể lại lịch sử liên hệ nguyên thủy giữa Thiên Chúa và nhân loại, đi trước cả công trình tạo dựng. Thánh Phaolô, khi viết cho các tín hữu Kitô ở thành Ephêsô, đã dâng lên bài ca tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha, Đấng đã thực hiện ý định cứu độ phổ quát của Ngài qua dòng thời gian, theo lượng từ nhân vô biên của Ngài, ý định ấy chính là một ý định thương yêu. Thánh Tông Đồ quả quyết: trong Đức Giêsu Con của Ngài, Thiên Chúa ”đã chọn chúng ta trước khi tạo thành vũ trụ để chúng ta được nên thánh thiện và không tỳ ố trước mặt Ngài trong đức ái” (Ep 1,4). Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương ”trước” khi chúng ta sinh ra! Hoàn toàn do tình thương vô điều kiện thúc đẩy, Chúa đã “tạo dựng chúng ta từ hư vô” (Xc 2 Mac 7,28) để dẫn đưa chúng ta đến sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài.

”Kinh ngạc trước công trình quan phòng của Thiên Chúa, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: ”Khi thấy các tầng trời, trong công trình tay Chúa dựng nên, mặt trăng và các tinh tú Chúa đã tạo thành, thì con người có là chi mà Chúa nhớ đến, phàm nhân có là gì mà Chúa phải quan tâm?” (Tv 8,4-5). Vì thế, chân lý sâu xa về cuộc sống chúng ta được gồm tóm trong mầu nhiệm lạ lùng này là: mỗi thụ tạo, đặc biệt là con người, đều là kết quả một ý nghĩ và một hành vi yêu thương của Thiên Chúa, tình yêu vô biên, trung tín, vĩnh cửu (Xc Gr 31,3). Sự khám phá thực tại này thay đổi thực sự cuộc sống của chúng ta một cách sâu đậm. Trong một trang nổi danh của cuốn “Tự Thú”, Thánh Augustinô diễn tả một cách nồng nhiệt khám phá của ngài về Thiên Chúa vẻ đẹp tột đỉnh và là tình thương tột độ, một vị Thiên Chúa luôn gần gũi với thánh nhân, Đấng mà sau cùng thánh nhân đã cởi mở tâm trí để được biến đổi: ”Lạy Chúa là vẻ đẹp rất cổ kính và rất mới mẻ, con yêu Chúa quá chậm! Đúng vậy, Chúa đã ở trong con và con ở ngoài. Con đã tìm Chúa ở ngoài. Bất hạnh thay, con đã lao mình vào những thụ tạo kiều diễm của Chúa. Chúa ở trong con, nhưng con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo ấy đã giữ con xa Chúa, chúng chẳng hiện hữu nếu không ở trong Chúa. Chúa gọi con, Chúa kêu con và phá vỡ sự điếc của con; Chúa chiếu sáng, và ánh quang huy hoàng của Chúa phá tan sự mù quáng của con; Chúa tỏa hương thơm, và con thở hít, khao khát Chúa, niếm hưởng Chúa và con đói khát; Chúa chạm đến con, và con nồng cháy mong ước an bình của Chúa” (X, 27.38). Với những hình ảnh đó, Thánh Giám Mục thành Hippone tìm cách mô tả mầu nhiệm khôn tả về cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, với Tình Thương của Chúa biến đổi toàn thể cuộc sống.

Đó là một tình yêu không chút dè dặt đi trước chúng ta, nâng đỡ chúng ta và kêu gọi chúng ta suốt trong hành trình cuộc sống và có căn cội trong sự nhưng không tuyệt đối của Thiên Chúa.

Khi nói về sứ vụ linh mục, vị tiền nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2, khẳng định rằng ”Mỗi hành vi thừa tác dẫn đến sự yêu mến và phục vụ Giáo Hội, thì đồng thời cũng giúp tăng trưởng ngày càng sâu rộng hơn sự yêu mến và phụng sự Chúa Giêsu Kitô là Đầu, là Mục Tử và là Hôn Phu của Giáo Hội; tình yêu này luôn được coi như lời đáp trả tình yêu ân cần, tự nguyện và nhưng không của Thiên Chúa trong Chúa Kitô” (Tông Huấn Pastores dabo vobis, 25). Thực vậy, mỗi ơn gọi đặc thù đều nảy sinh từ sáng kiến của Thiên Chúa, là hồng ân tình thương của Chúa! Chính Chúa đi ”bước đầu” chứ không phải vì sự tốt lành đặc thù nào nơi chúng ta, đúng hơn đó là do sự hiện diện của chính tình thương Chúa được ”đổ xuống trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh” (Rm 5,5).

Trong mọi thời đại, nơi nguồn cội ơn gọi của Chúa, đều có sáng kiến tình thương vô biên của Thiên Chúa, Đấng tỏ mình trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô. Như tôi đã viết trong Thông điệp đầu tiên của tôi ”Deus caritas est – Thiên Chúa là Tình Thương”, ”trong thực tế Thiên Chúa trở nên hữu hình bằng nhiều cách. Trong lịch sử tình thương mà Kinh Thánh thuật lại cho chúng ta, Chúa đến gặp chúng ta, Ngài tìm cách chinh phục chúng ta, cho đến Bữa Tiệc Ly, cho đến khi Con Tim của Ngài bị đâm thâu qua trên thập giá, cho đến những cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh và những công trình to lớn nhờ đó, Ngài hướng dẫn hành trình của Giáo Hội sơ khai, qua những hoạt động của các Tông Đồ. Cũng vậy, trong lịch sử sau đó của Giáo Hội, Chúa không hề vắng mặt: Ngài luôn luôn đến gặp gỡ chúng ta – qua những người phản ánh Chúa; qua Lời của Ngài, trong các Bí tích, nhất là trong Thánh Thể” (n.17).

Tình yêu của Thiên Chúa tồn tại mãi mãi, trung tín với chính mình, với ”lời Ngài hứa qua muôn thế hệ” (Tv 105,8). Vì thế, cần tái loan báo, nhất là cho các thế hệ trẻ, vẻ đẹp có sức mời gọi của tình yêu Chúa, đi trước và tháp tùng: chính Chúa là mùa xuân bí mật, là động lực không hề thiếu, cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

”Anh chị em thân mến, chúng ta phải cởi mở cuộc sống đối với tình yêu Chúa, và đối với tình yêu hoàn hảo của Chúa Cha (Xc Mt 5,48) mà Chúa Giêsu Kitô hằng ngày nhắc nhở cho chúng ta! Mẫu mực cao cả nhất của đời sống Kitô hệ tại yêu mến ”như” Thiên Chúa; đây là một tình thương được biểu lộ qua sự hiến thân trọn vẹn một cách trung thành và phong phú”. Với nữ tu bề trên Đan viện ở Segovia, đau buồn vì thánh nhân bị treo chức trong những năm ấy, Thánh Gioan Thánh Giá trả lời và mời gọi chị nữ tu ấy hãy hành động theo ý định Thiên Chúa: ”Chị đừng nghĩ đến những gì khác ngoài điều này là tất cả đều do Thiên Chúa an bài, và nơi nào không có tình yêu, thì chị hãy mang tình yêu vào và chị sẽ nhận được tình yêu” (Epistolario, 26).

Trên thửa đất hiến dâng ấy, mọi ơn gọi nảy sinh và tăng trưởng, trong sự cởi mở yêu mến Thiên Chúa và như hoa trái của tình yêu ấy. Và chính khi kín múc từ nguồn mạch đó trong kinh nguyện, siêng năng gặp gỡ Lời Chúa và các bí tích, đặc biệt là phép Thánh Thể, ta có thể sống tình yêu thương đối với tha nhân, nơi họ ta học cách nhận ra tôn nhan Chúa Kitô (Xc 25,31-46). Để diễn tả mối liên hệ không thể tách rời giữa ”hai tình yêu ấy” – mến Chúa và yêu người – nảy sinh từ cùng nguồn mạch thần linh và qui hướng về nguồn mạch ấy, Thánh Gregorio Cả Giáo Hoàng dùng thí dụ cây nhỏ bé: ”Trong thửa đất tâm hồn chúng ta (Thiên Chúa) đã trồng trước tiên là gốc rễ tình yêu đối với Ngài và sau đó tình yêu huynh đệ phát triển như những cành lá” (Moralium Libri, sive expositio in Librum B. Job, Lib. VII, cap. 24, 28; PL 75, 780D)

Hai kiểu diễn tả cùng một tình yêu duy nhất của Chúa như thế phải được những người quyết định bắt đầu hành trình phân định ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến sống một cách đặc biệt khẩn trương và với con tim tinh tuyền. Sống mến Chúa yêu người như thế là yếu tố quan trọng. Thực vậy, tình yêu đối với Thiên Chúa, Đấng mà các linh mục và tu sĩ trở thành những hình ảnh hữu hình, tuy là luôn luôn bất toàn – chính là động lực thúc đẩy đáp lại lời mời gọi thánh hiến một cách đặc biệt cho Chúa qua sự thụ phong linh mục hoặc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm. Câu trả lời hăng hái của thánh Phêrô với Chúa: ”Thầy biết rõ là con yêu mến Thầy” (Ga 21,15) chính là bí quyết sống hiến dâng và sống trọn vẹn, nhờ đó được đầy tràn đầy vui mừng sâu xa.

Một sự biểu lộ cụ thể khác về tình yêu, lòng yêu người, nhất là đối với những người túng thiếu và đau khổ nhất, là sự thúc đẩy quyết liệt biến LM và người thánh hiến thành một người khơi dậy tình hiệp thông giữa dân chúng và là người gieo vãi hy vọng. Quan hệ giữa những người thánh hiến, nhất là linh mục, với cộng đoàn Kitô thật là điều sinh tử và cũng trở điều cơ bản đối với chân trời tình cảm của họ. Về điểm này, Thánh Cha Sở họ Ars thường lập lại: ”Làm linh mục không phải là cho bản thân mình; nhưng là cho anh chị em” (Le curé d’Ars. Sa pensée – Son coeur, Foi Vivante, 1966, p.100).

Anh chị em thân mến trong hàng giám mục, linh mục, phó tế, những người nam nữ thánh hiến, các giáo lý viên và nhân viên mục vụ, và tất cả anh chị em là những người dấn thân trong lãnh vực giáo dục các thế hệ trẻ, tôi tha thiết nhắn nhủ anh chị em hãy chăm chú lắng nghe những người ở trong cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và phong trào khi họ nhận thấy có những dấu hiệu về ơn gọi linh mục hoặc đời sống thánh hiến đặc biệt. Điều quan trọng là tạo nên trong Giáo Hội những điều kiện thuận lợi để họ có thể đi tới chỗ thưa ”xin vâng” quảng đại đáp lại tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa.

Một nghĩa vụ trong việc mục vụ ơn gọi là cống hiến những điểm định hướng để hành trình được kết quả. Yếu tố chủ yếu là yêu mến Lời Chúa, vun trồng một sự quen thuộc ngày càng gia tăng với Kinh Thánh và chăm chú và kiên trì cầu nguyện riêng và chung, để có thể nghe thấy tiếng Chúa gọi giữa bao nhiêu tiếng nói làm đầy đời sống thường nhật. Nhưng nhất là Thánh Thể là ”trung tâm sinh tử” của mỗi hành trình ơn gọi: chính trong Thánh Thể mà tình yêu Thiên Chúa đánh động chúng ta trong hy tế của Chúa Kitô, biểu lộ hoàn hảo tình yêu và chính trong Thánh Thể chúng ta luôn luôn tái học hỏi cách sống tình yêu Chúa ”ở mức độ cao”. Lời Chúa, kinh nguyện và Thánh Thể là kho tàng quí giá để hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn tận hiến vì Nước Trời.

Tôi cầu mong rằng các Giáo Hội địa phương, qua các thành phần khác nhau, trở thành ”nơi” chăm chú phân định và kiểm chứng sâu xa về ơn gọi, mang lại cho người trẻ nam nữ một sự đồng hành khôn ngoan và vững chắc về tinh thần. Qua cách thức ấy, cộng đồng Kitô trở thành một sự biểu lộ Tình Yêu của Thiên Chúa Đấng giữ gìn nơi mình mọi ơn gọi. Năng động ấy đáp ứng những đòi hỏi của giới răn mới của Chúa Giêsu. Nó có thể diễn ra một cách hùng hồn và đặc biệt trong các gia đình gia đình Kitô, tình yêu gia đình vốn là sự diễn tả tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã hiến mình vì Giáo Hội (Xc Ep 5,32). Trong các gia đình, ”là những cộng đoàn sống động và yêu thương” (GS 48), người trẻ có thể cảm nghiệm tuyệt vời về tình yêu dâng hiến ấy. Thực vậy các gia đình không những là nơi ưu tiên để huấn luyện về nhân bản và Kitô, nhưng có thể là ”chủng viện đầu tiên và tốt đẹp về ơn gọi sống đời thánh hiến cho Nước Chúa” (Gioan Phaolô 2, Tông Huấn Familiaris consortio, 53), giúp tái khám phá trong gia đình vẻ đẹp và tầm quan trọng của chức linh mnục và đời sống thánh hiến. Các vị Mục Tử và tất cả các tín hữu giáo dân hãy luôn biết cộng tác để trong Giáo Hội có thêm nhiều ”nhà và trường hiệp thông” theo kiểu mẫu Thánh Gia thất Nazareth, phản ánh một cách hài hòa trên trái đất cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Với những mong ước ấy, tôi thành tâm ban Phép Lành Tòa Thánh cho anh em đáng kính trong hàng giám mục, cho các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân, đặc biệt là những người trẻ nam nữ, với tâm hồn ngoan ngoãn đang lắng nghe tiếng Chúa, sẵn sàng đón nhận tiếng gọi với lòng gắn bó và trung thành.
Vatican ngày 18 tháng 10 năm 2011

Biển Đức 16, Giáo Hoàng
G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

R.Vatican

Related posts