Thần học Thường Huấn 

Thần học về tông đồ giáo dân

THẦN HỌC 
VỀ TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
bia-tdgd2-copy

Dẫn nhập 

Tháng Mười 1951, một sự kiện ở Roma được xem như là biến cố quan trọng trong lịch sử Giáo Hội, ngang tầm với việc khám phá ra Châu Mỹ hay Công Đồng Vatican II: Đại Hội Tông Đồ Giáo Dân lần I. Tiếng chuông đã được gióng lên không phải để “chuông nguyện hồn ai” mà là để đánh thức một điều tưởng chừng như đã bị bỏ quên từ lâu. Một thời gian sau, Công Đồng Vatican II là biến cố quan trọng nhất nói nhiều về người giáo dân đến nỗi có thể gọi là “Công đồng về giáo dân”. Đừng quên rằng đây là Công đồng đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội mà người giáo dân được tham dự với tư cách quan sát viên và cũng là lần đầu tiên “người giáo dân” là đối tượng để suy tư và là chủ đề của một văn kiện Công đồng: Sắc lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân Apostolicam Actuositatem.

Điều gì đã làm cho các nghị phụ của Công đồng Vatican II có một cái nhìn cởi mở hơn về tông đồ giáo dân? Sự thay đổi này có được là nhờ các sự kiện và thần học. Phải nhìn nhận là các phong trào tục hóa và bài giáo sĩ rất mạnh mẽ vào thời đó, các linh mục tu sĩ không thể tiếp cận cách hiệu quả trong nhiều lãnh vực xã hội tại một số quốc gia, cho nên nếu Giáo hội muốn hiện diện tại những nơi đó thì chính giáo dân phải đảm trách công việc. Vào thời họp Công đồng, vấn đề nhức nhối là “Giáo hội thầm lặng” ở sau Bức màn sắt, nhưng Giáo hội phương Tây cũng đang gặp phải nhiều vấn đề. Chính vì thế, Giáo Hội cần phải thay đổi và điều cần phải thay đổi đầu tiên phải là các suy tư về thần học. “Thần học Công giáo trong những năm gần đây đã đặc biệt quan tâm đến đời sống và tư tưởng hiện đại với hy vọng chinh phục thế giới hiện nay về với Đức Kitô … nỗ lực của các nhà thần học là tìm ra những ý tưởng phù hợp với tâm thức hiện đại, chú trọng đến những đối tượng nghiên cứu mới và chịu trách nhiệm với sự phát triển thần học. Ranh giới thần học đã phát triển theo 3 chiều hướng đặc biệt, có thể nói ngày nay chúng ta có những ngành thần học hoàn toàn mới: Thần học giáo dân, thần học lịch sử và thần học các thực tại trần thế” .[1] Và trình bày về những hoạt động tông đồ của giáo dân hẳn nhiên sẽ thiếu sót nếu không dựa trên nền tảng là “Thần học về tông đồ giáo dân”

Từ ngữ “giáo dân”

Từ laikos trong tiếng Hy Lạp (được Latinh hóa là laicus) – nghĩa là “giáo dân” – không tìm thấy trong Tân Ước. Từ này dịch sát nghĩa là “thuộc về, người thuộc về dân chúng (laos)”. Giáo dân là thành viên của dân Chúa, một dân Israel mới, một cộng đoàn cứu rỗi,  là “laos” trong tiếng Hy Lạp, những người mà Thánh Giacôbê đã nói đến trong Cv 15,14: “Ông Simôn đã thuật lại cho chúng ta rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã đoái thương chọn trong các dân ngoại (ethne) một dân (laos) mang danh Người”, hoặc như trong thư của Thánh Phêrô 2,9: “Còn anh em, anh em là dân (laos) được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền”.

Như vậy, trong ý nghĩa thần học, từ “giáo dân” được xuất phát từ laos trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là dân Chúa[2], một dân khác với dân ngoại (ethne) và chủ yếu là thành viên của một dân được tuyển chọn, một thành viên của ples sancta.[3] “Giáo sĩ” hay “giáo dân” như cách chúng ta hiểu ngày nay vẫn chưa phân biệt nhau bởi vì tất cả đều là dân Chúa để phân biệt với dân ngoại.

Và điều khá ngạc nhiên là nguồn gốc của từ “giáo sĩ” cũng không phải để phân biệt với “giáo dân”. “Giáo sĩ” trong tiếng Latinh là “clericus”, do từ Hy Lạp kleros có nghĩa là “gia nghiệp”. Trong Cựu Ước, từ này được dành cho chi tộc Lêvi bởi vì họ không được chia phần đất đai để làm gia nghiệp vì chính Thiên Chúa là gia nghiệp của họ (Tv 16,5-6)[4]. Đến thời Tân Ước, “clericus” chỉ toàn dân Chúa chứ không riêng một chi tộc nào và ngược lại với Cựu Ước, chính Chúa đã chọn dân làm gia nghiệp. Tất cả đoàn chiên của đức Kitô được gọi là “clericus” như trong 1 Pr 5,3 “Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (neque ut dominantes in cleris sed formae facti gregi et ex animo). Như vậy, nguồn gốc của “laicus” và “clericus” nói đến dân được Thiên Chúa tuyển chọn, tất cả mọi người, không phân biệt “giáo dân” và “giáo sĩ”.

I. GIÁO SĨ VÀ GIÁO DÂN: HAI MẶT BÊN TRONG GIÁO HỘI

1. Nguồn gốc sự phân biệt

Do đâu có sự phân biệt giáo sĩ và giáo dân? Các sử gia cho rằng khi Kitô giáo trở thành quốc giáo trong Đế quốc Rôma, Giáo hội đã tự đồng hóa với các cơ cấu xã hội: các giám mục và giáo sĩ được tách biệt ra khỏi phần còn lại theo mô hình xã hội quân chủ. Như vậy, nguồn gốc của sự phân biệt dựa theo điều kiện xã hội hơn là dựa theo căn bản thần học và sự phân biệt ngày càng sâu rộng. Từ “giáo dân” (laicus) lần đầu tiên xuất hiện trong thư của Thánh Clementê (40,6) vào năm 96 để chỉ người giáo dân bình thường, phân biệt với phó tế hoặc linh mục. Từ này trở nên phổ biến vào thế kỷ thứ III.[5] Tertullianô (+ 220) hạn chế danh từ “laicus” vào các tín hữu không có chức thánh. Và rồi một thành phần thứ ba xuất hiện càng làm cho vấn đề trở nên phức tạp: các tu sĩ.

Như lịch sử đã chứng minh, sự khó khăn khi định nghĩa “giáo dân” xuất phát từ ý niệm tiêu cực: giáo dân là những người không thuộc hàng giáo sĩ, nghĩa là những người không nhận chức thánh. Cách chia Dân Chúa thành ba thành phần là giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân dường như là cách phân chia không chính xác. Từ ngữ thần học không trùng với từ ngữ giáo luật. Giáo luật nhìn nhận ba thành phần trong Giáo Hội là giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân nhưng đôi khi từ “giáo dân” lại bao hàm tất cả những ai không có chức thánh (cho nên các nam nữ tu sĩ đều là giáo dân), còn theo thần học, các tu sĩ thuộc về một thành phần khác với các giáo dân. Rồi các thành viên tu hội đời: họ khấn giữ ba lời khấn, vậy họ là giáo dân hay tu sĩ? Có những tu sĩ là tu sĩ – linh mục (nếu họ được phong chức) hay chỉ là tu sĩ (nếu không được phong chức). Chính vì thế mà Giáo lý Giáo Hội Công Giáo bắt đầu định nghĩa “giáo dân” (Christifideles) là  “những người được tháp nhập vào Đức Kitô nhờ bí tích Rửa Tội để làm nên Dân Chúa”. Còn Bộ Giáo Luật khẳng định: “Do sự thiết lập của Thiên Chúa, giữa các tín hữu trong Giáo Hội, có các thừa tác viên có chức thánh, trong luật (in jure) được gọi là các giáo sĩ; còn các người khác được gọi là giáo dân” (Giáo Luật, điều 207). Như vậy sự phân chia chỉ có tính Giáo hội học. Chính đời sống của Giáo hội đòi hỏi phải có sự phân chia chức năng, hoạt động và quyền lực.

Mọi tín hữu đều sống kết hợp với Đức Kitô “mà không phân chia”. Không có giai cấp hoặc tầng lớp xã hội trong Giáo Hội Công giáo. Như Lumen Gentium dạy: “cùng chung một phẩm giá của những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành” (LG 32). Mặc dù do ý muốn của Chúa và vì lợi ích của toàn Giáo Hội, vài người đảm nhận nhiệm vụ là “thầy dạy, làm người phân phát các nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác”, thế nhưng “giữa tất cả mọi người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô” (ibid.). Có một sự khác biệt thật sự, nhưng không phải khác biệt về đẳng cấp giữa chức linh mục thừa tác và phần còn lại của Dân Chúa (LG 10), nhưng sự khác biệt đó hiện hữu chỉ để phục vụ.

2. Ý nghĩa tích cực của sự phân biệt 

Thực ra, sự phân biệt giáo sĩ và giáo dân có nền tảng trong Tân Ước và thực sự nằm trong ý muốn và hành động của chính Chúa Giêsu. Như Công đồng Trentô và Vatican I & II đã dạy, cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội là thiết chế của Thiên Chúa (cf Trent, Sess. 23, Canon 6 [DS 1776]; Vatican I, [DS 3050f]; LG 18). Phải nhấn mạnh điểm này bởi vì có những lạc giáo cho rằng Giáo Hội nguyên thủy là một “nền dân chủ” phi hình thức. Ví dụ phái Montanist chỉ chấp nhận quyền bính của những người được cho là có ơn đoàn sủng. Luther phát triển một thần học về chức linh mục vương giả chung cho toàn thể các tín hữu. Gần đây, Schillebeeckx đã phác họa Giáo Hội như là một câu lạc bộ. Để đối chọi với  các chủ trương lãng mạn này, ta phải nại đến Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô, một thân thể giống như bất kỳ thân thể sống động nào khác mà Thánh Phaolô cho rằng cũng có những phần thân thể khác nhau. Có những ân huệ, nhiệm vụ, các phục vụ khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa và một Thánh Thần (cf 1 Cr 12).

Nhắc lại rằng giáo dân không phải là linh mục hay tu sĩ bao hàm hai chân lý quan trọng của đức tin: trước hết, do ý muốn của Đấng Sáng Lập, Giáo hội là một cơ cấu có phẩm trật; thứ đến, theo từ ngữ của Giáo luật, các lời khuyên Phúc Âm là ân sủng mà Giáo Hội nhận được từ Thiên Chúa “là hồng ân của Chúa ban và Giáo Hội lĩnh nhận từ Đức Kitô và, nhờ ơn Người, Giáo Hội luôn luôn bảo toàn” (Giáo luật, điều 575). Định nghĩa tiêu cực nói lên rằng Giáo Hội là một thống nhất phong phú trong sự đa dạng. Người giáo dân có một chỗ đứng trong chính sự phong phú này. Và như vậy, định nghĩa mà ta gọi là tiêu cực ấy vẫn là có một ý nghĩa tích cực.

3. Tất cả là “những người đã lãnh phép Thánh Tẩy” 

Hiến chế Lumen Gentium, số 10 đã nói: “Chúa Kitô, Linh Mục Thượng Phẩm được chọn nơi loài người (x. Dth 5,1-5), để biến dân tộc mới thành một “vương quốc, thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha Người” (Kh 1,6; x. 5,9-10). Thực vậy, những người đã lãnh phép Thánh Tẩy, nhờ được tái sinh và xức dầu của Thánh Thần, được cung hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng và nhận chức tư tế thánh, hầu qua mọi hoạt động của con người Kitô hữu, dâng của lễ thiêng liêng và rao truyền những kỳ công của Ðấng đã gọi họ từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Ngài (x. 1P 2,4-10). Vì thế, tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa (x. CvTđ 2,42-47), họ phải dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1), phải làm chứng về Chúa Kitô trên khắp mặt đất và trình bày niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang khao khát (x. 1P 3,15)”

Như vậy, vấn đề không phải là “giáo dân” (không phải giáo sĩ) nhưng là người được nhận lãnh bí tích Rửa Tội. “Qua bí tích rửa tội họ được tháp nhập vào thân thể của đức Kitô và gia nhập Dân Chúa, tham gia theo cách thức của mình vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của đức Kitô. Họ thi hành sứ mạng của toàn dân Kitô trong Giáo hội và giữa trần thế theo nhiệm vụ riêng của mình. Tính cách cá biệt của các giáo dân là trần thế (…) Ơn gọi đặc biệt của họ là tìm cầu Nước Chúa qua việc dấn thân vào công việc trần thế, và điều hành chúng theo ý định của Thiên Chúa. Họ sống giữa đời, dấn thân vào các công việc thế sự, trong những điều kiện thường nhật của đời sống xã hội và gia đình, tức là môi trường sinh sống của họ. Họ được kêu gọi tại đó, ngõ hầu sống theo tinh thần Phúc âm họ đóng góp vào việc thánh hóa thế gian, như men trong bột, qua việc chu toàn bổn phận của mình. Do đó, nhờ chứng tá của cuộc sống rạng rỡ bởi đức tin, đức cậy, đức mến, họ tỏ bày Đức Kitô cho tha nhân”[6]

Và không giống như cách hiểu của phong trào Công giáo tiến hành về tông đồ giáo dân thời tiền Công đồng Vatican II cho rằng việc tông đồ của giáo dân là tham gia vào việc tông đồ của hàng giáo phẩm nhờ vào sự ủy nhiệm của hàng giáo phẩm, Công đồng Vatican II dạy rằng giáo dân có quyền và bổn phận tham gia việc tông đồ bởi vì họ là thành viên của Giáo Hội. Lời kêu gọi giáo dân làm việc tông đồ xuất phát từ Đức Kitô và có nền tảng trong bí tích Rửa tội và Thêm sức. Đó không phải là do sự ủy nhiệm của hàng giáo phẩm – mặc dù rõ ràng nếu giáo dân muốn hành động nhân danh Giáo hội thì phải có sự chuẩn nhận của hàng giáo phẩm.

Như vậy sự cộng tác và chia sẻ là nguyên tắc nền tảng: “Họ (giáo dân) dấn thân trong đời sống thế gian … trung thành với ơn gọi là dân của Chúa. Họ làm tròn nhiệm vụ của mình bằng cách cộng tác với hàng giáo phẩm trong công cuộc cứu rỗi các linh hồn và làm việc để thăng tiến các điều kiện của đời sống trần thế thích ứng với sứ mệnh cứu rỗi của Giáo hội.”[7] Lý do là vì “ngày nay sự cộng tác giữa giáo dân với hàng giáo phẩm chưa bao giờ cần thiết và  thực hiện có hệ thống đến như vậy. Sự cộng tác này bao gồm cả ngàn hình thức, từ sự hy sinh thầm lặng để cứu rỗi các linh hồn cho đến những lời nói tử tế và việc lành làm cho ngay cả những người thù nghịch với Giáo hội cũng ngưỡng mộ. Nó cũng còn là hoạt động của hàng giáo phẩm được chia sẻ cho giáo dân, sự can đảm được trả giá bằng chính mạng sống mình, điều này không xuất hiện trong bất kỳ bảng thống kê nào nhưng chỉ mình Chúa biết. Việc tông đồ kín đáo này có lẽ là công việc quý giá và hiệu quả nhất.”[8]

Và nếu giáo dân được chỉ định làm việc tông đồ nhờ bí tích Rửa tội và Thêm sức thì tông đồ là quyền của họ chứ không phải do ủy nhiệm hay chỉ định của giám mục hay linh mục. Vì thế, Giáo luật cho phép giáo dân có quyền thành lập và điều khiển các hiệp hội, hành động để phục vụ Giáo hội, quyền cổ vũ và nâng đỡ các hoạt động tông đồ bằng sáng kiến riêng của mình.[9]

(còn tiếp)


[1] Kevin McNamara, “Catholic Theology Today: A Recent Survey”, The Irish Theological Quarterly, 21 (1954), 245.
[2] Tuy nhiên, cha Ignace de la Potterie chứng minh rằng laos không chỉ có nghĩa là toàn bộ Dân Thiên Chúa; trong bản Bảy Mươi (Bản dịch Cựu Ước tiếng Hy Lạp), từ này chỉ một phần nào đó của toàn bộ, những người dân bình thường trong Israel phân biệt với các thủ lãnh, ngôn sứ, tư tế, hoặc các vương hầu (cf Is. 24. 2: “Bấy giờ tư tế sẽ chung số phận với dân thường, ông chủ với tớ trai, bà chủ với tớ gái, kẻ bán với người mua, kẻ cho mượn với người đi mượn, chủ nợ với con nợ). Xem de la Potterie, “Clement of Rome”, Epistle I, 40, 6; Nouvelle Revue Théologique 80 (1958), 840-853
[3] Y. Congar, Lay People in the Church, Bloosmbury, London, 1957, tr.1
[4] Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con, vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn.
[5] Peter Eicher, Dictionnaire de Théologie, Cerf, 1988, mục từ “Laic/clerc”, tr. 346.
[6] “Thần học về giáo dân », Thời sự Thần học – Số 14 – Tháng 12.1998, tr. 44-49
[7] Actes du premier congress mondial pour l’apostolat des laiques, Rome, Comité Permanent des Internationaux des Laiques, 1952, Vol. I, b3
[8] Pius XII, Guiding principles of the lay apostolate, Đại hội Tông đồ giáo dân thế giới lần II, ngày 5 tháng Mười1957.
[9] Giáo luật (1983) c. 225, cf cc.215-216.
Ðiều 225: (1) Xét vì các giáo dân, cũng như mọi tín hữu khác, được Thiên Chúa ủy thác làm việc tông đồ do phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, nên họ có nghĩa vụ tổng quát và có quyền lợi xét như từng cá nhân hoặc kết hợp thành hiệp hội, phải làm sao để sứ điệp cứu rỗi của Thiên Chúa được mọi người khắp thế giới biết đến và đón nhận. Nghĩa vụ này lại càng thôi thúc hơn trong những hoàn cảnh mà chỉ có thể nhờ các giáo dân, người ta mới có thể nghe Phúc Âm và biết Ðức Kitô.
(2) Tùy theo điều kiện riêng của từng người, các giáo dân cũng có bổn phận riêng phải thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc Âm; và như vậy họ làm chứng cho Ðức Kitô đặc biệt khi điều hành các sự việc thế trần cũng như lúc thi hành các chức vụ trên đời.
Ðiều 215: Các tín hữu có quyền tự do thiết lập và điều khiển các hiệp hội nhằm mục đích từ thiện hoặc đạo đức, hoặc nhằm cổ võ ơn gọi của người Kitô trong thế giới; họ cũng có quyền nhóm họp để cùng nhau theo đuổi đạt tới các mục đích đó.
Ðiều 216: Vì được tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội, tất cả các tín hữu có quyền cổ võ và nâng đỡ hoạt động tông đồ kể cả bằng sáng kiến riêng, tùy theo tình trạng và điều kiện của họ; tuy nhiên không sáng kiến nào có thể mệnh danh là Công Giáo, nếu không có sự đồng ý của nhà chức trách có thẩm quyền trong Giáo Hội.
Tác giả bài viết: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
gpquinhon.org

Related posts