Văn hóa & Đức tin 

Giới thiệu về Tủ sách Nước Mặn – Qui Nhơn

bia-2-chi-em-ll-copy

Sau thời gian chuẩn bị, quyển đánh số mở đầu cho Tủ sách Nước Mặn đã được phát hành dịp đầu năm dương lịch 2013, tựa đề: “Hai chị em lưu lạc”, tiểu thuyết trẻ em của Linh mục Phêrô Lục. Tủ sách Nước Mặn là một nỗ lực mục vụ của Giáo phận Qui Nhơn nhằm phục vụ nhu cầu tinh thần của cộng đồng Dân Chúa ở giáo phận, trong chương trình hướng tới kỷ niệm 400 đón nhận Tin mừng (1618-2018). Năm 2018 cũng là kỷ niệm 150 năm ngày sinh của linh mục tác giả Phêrô Lục. Hướng tới kỷ niệm kép này, Ban mục vụ Văn hóa Truyền thông Giáo phận Qui Nhơn và câu lạc bộ sáng tác thơ văn Công giáo Đồng Xanh Thơ Qui Nhơn kết hợp tổ chức Giải viết văn đường trường, kéo dài 6 năm và sẽ kết thúc vào năm 2018. Các tác giả đạt giải, nếu có thêm những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ để in các tuyển tập truyện ngắn. Đây là chương trình vận động tìm kiếm và xây dựng các tài năng văn xuôi cho Giáo hội, được giới thiệu tại http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/

Để rõ hơn về Tủ sách Nước Mặn và tác giả Phêrô Lục, xin mời quý độc giả xem hai bài giới thiệu dưới đây.

Ban Văn hóa Truyền thông Giáo phận Qui Nhơn

TIẾP NỐI DẶM ĐƯỜNG XƯA

Hành trình 400 năm Tin Mừng đến trên quê hương Qui Nhơn là hành trình Nước Mặn và cũng là hành trình chữ quốc ngữ.

Ngày 18-01-1615, các thừa sai Dòng Tên đặt chân lên cửa biển Đà Nẵng, sau đó không lâu, cư sở Hội An được thành lập. Tháng 7-1618, các vị thiết lập cư sở thứ hai tại Nước Mặn, thuộc thôn An Hòa, xã Phước Quanghuyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định ngày nay. Cư sở thứ ba được thành lập năm 1623 tại Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện  Điện Bàn, Quảng Nam ngày nay. Đây là ba trung tâm truyền giáo được các thừa sai Dòng Tên thiết lập mở màn cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Đàng Trong[1].

Cư sở Nước Mặn lúc bấy giờ không chỉ là trung tâm truyền giáo mà còn là chiếc nôi chữ Quốc ngữ. Trong khi giao tiếp và loan báo Tin Mừng cho cư dân địa phương, các thừa sai thường xuyên ở tại Nước Mặn trong những năm đầu gồm có Cha Francesco Buzomi (Ý), Cha Cristoforo Borri (Ý), Cha Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), Tu huynh Antonio Dias (Bồ Đào Nha) đã nghe tiếng nói của cư dân địa phương, ghi lại âm tiếng Việt để viết kinh bổn và dạy tiếng Việt cho những thừa sai đến sau[2]. Cha Francisco de Pina có biệt tài về ngôn ngữ, đã có công đầu trong việc khai sinh chữ Quốc ngữ mà Cha Alexandre de Rhodes, người đã học tiếng Việt nơi cha Francisco de Pina, sẽ quảng bá.

Chữ Quốc ngữ không chỉ được khai sinh trên địa bàn giáo phận Qui Nhơn mà còn được phát triển mạnh mẽ ở đó với các nhà in Làng Sông, nhà in Qui Nhơn (imprimerie de la Mission de Qui Nhơn), nhà in I. Đại, nhà in Mai Cảnh, vv… mà rất nhiều ấn phẩm hiện còn được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội và một số thư viện hải ngoại.

Các nhà in đã hoạt động mạnh và liên tục, có nghĩa là vẫn liên tục có tác phẩm mới và người viết nên tác phẩm.

Do chiến tranh ly loạn, những nhà in xưa không còn dấu vết, các ấn phẩm xưa bị mai một, lượng người cầm bút xưa cũng khuất mờ theo thời gian.

Kỷ niệm 400 năm Nước Mặn, 1618-2018, không phải để thương nhớ người xưa nhưng là để tiếp nối những công trình họ đã khai phá, trong đó có công trình sáng tác văn thơ và kinh sách Kitô giáo.

Kỷ niệm 400 năm Nước Mặn cũng trùng với kỷ niệm 150 năm sinh nhật linh mục Phêrô Lục, một tác giả văn xuôi đã để lại nhiều tác phẩm. Cha sinh năm 1868 tại Phú Thượng, Quảng nam; thụ phong linh mục năm 1898; qua đời ngày 23-12-1927, mộ tại Làng Sông. Cha đã làm việc tại Bồng Sơn, Thác Đá, Tân Long, nhà in Làng Sông (1904-1906); Gò Thị (1906-1911); Tiểu Chủng Viện Làng Sông (1911-1913); Kiều Đông (1913-1914); trường Thầy Giảng Đại An (1917-1923); Toà Giám Mục và nhà in Làng Sông (1923-1926); Ngãi Điền (tháng 04/1927-23/12/1927). Trong những tác phẩm cha  đã viết, có một số tiểu thuyết mang nội dung Kitô giáo như ‘Song Nghĩa Tự’, ‘Đồ của Hời’,  ‘Hai chị em lưu lạc’…

Hướng tới kỷ niệm 150 năm và 400 năm đáng nhớ, chúng tôi in lại câu chuyện này, giữ nguyên bản văn xưa của tác giả.

HAI CHỊ EM LƯU LẠC mang mã số khởi hành của một tủ sách mới, Tủ sách NƯỚC MẶN.

Việc phát hành quyển sách cũng đánh dấu ngày khởi động giải thưởng văn xuôi mang tên Giải Viết Văn Đường Trường 2013-2018, để phát huy bộ môn truyện ngắn và kịch bản. Liên tục trong sáu năm; mỗi năm có giải thưởng riêng và sẽ tổng kết cuối 2018. Các tác phẩm đạt giải sẽ được xuất bản thành tuyển tập trong Tủ sách Nước Mặn. Đặc biệt, về truyện ngắn, những tác giả có truyện đạt giải sẽ được Tủ sách Nước Mặn hỗ trợ để in riêng một tuyển tập truyện ngắn Kitô giáo dưới 200 trang.

Chúng tôi ước mong quý tác giả khắp nơi sẽ nồng nhiệt hưởng ứng cuộc thi để tiếp nối những cố gắng của người xưa nhằm phục vụ cho các thế hệ mới.

Qui Nhơn, ngày 20-8-2012
BAN VĂN HÓA & TRUYỀN THÔNG
GIÁO PHẬN QUI NHƠN

TIỂU SỬ CHA PHÊRÔ LỤC
(Trích Mémorial de la Mission de Qui Nhơn, Janvier 1928, trang 7 – 10)

Cha Phêrô Lục sinh ra tại họ Tùng-sơn, địa phận Phú-thượng, về tỉnh Quảng-nam, năm 1868, Cha Truyền rửa tội. Cha mẹ là người đạo đức sốt sắng tên là Phanxicô Xavie và Anê Dinh. Khi được 13 tuổi, cố Huề (P.Vivier) thấy con trẻ lanh lợi tốt trí, thì cho vào học Latinh tại Làng-sông.

Đến năm 1885, giặc Văn-thân nổi lên chém giết bổn đạo mọi nơi, đốt phá nhà cửa, trường Làng-sông cũng phải tan tành, học trò chạy xuống chui đụt ở cửa Quinhon, việc học phải đình bãi. Vì vậy Đức Cha Hân chọn ít nhiều học trò mà gởi sang trường Pinang, trò Phêrô cũng được chọn vào số ấy. Phêrô học tại Pinang cho đến năm Philosophia thì trở về Annam là đầu năm 1889, và đi giảng tại Phan-rang, dạy tiếng cho Cố Bạch tại Phan-thiết.

Năm 1892 về học Lý-đoán tại Làng-sông, qua năm sau chịu cắt tóc, và năm 1894 chịu bốn chức ; chẳng may tháng Maio cũng năm ấy, thầy bị đau phải nghỉ, thì Đức Cha sai ra Gia-hựu giúp cố Bửu mà coi việc nhà mồ côi. Năm 1897 về chịu chức thầy năm và dạy các chú tại Đại-an, qua tháng Augusto cũng năm ấy chịu chức thầy sáu. Đến lễ Epiphania năm 1898 chịu chức linh mục, đoạn ra ở An-ngãi giúp cố Thiên (P. Maillard) 5 năm, rồi năm 1904 vô Bồng-sơn, Thác-đá, Tân-long, đoạn về Làng-sông giúp nhà in. Năm 1906 ra Gò-thị làm vicaire cố Ngãi. Năm 1911 trở vô Làng-sông dạy quốc văn cho các chú và cũng giúp việc tòa Giám-mục. Năm 1914 đi lãnh Cha sở địa phận Lệ-sơn, và năm 1917 trở về Đại-an dạy học trò trường thầy giảng, đến năm 1923 thì lại dọn vô Làng-sông làm phó ký lục tòa Giám-mục và giúp việc nhà in mà kiểm duyệt các sách vở quốc âm.

Độ cuối năm 1926 Cha đã yếu mệt thì Đức Cha cho đi nghỉ ít lâu, đến tháng Avril 1927 lại sai ra địa phận Ngãi-điền là hai sở nhánh thuộc Đồng-quả, mà bởi ở lẻ loi xa cách, nên Đức Cha tách biệt mà làm một địa phận mới. Đến 10 Novembre người phát bịnh, thấy trong lương ương mệt mỏi ăn ngủ ít được, hay ụa mửa, song tưởng tiết đông thiên con người hay cảm là sự thường, ít bữa rồi cũng qua, không hề chi. Dè đâu bịnh ngày một tấn, đến 3Décembre thì mẹp, hết làm lễ được. Cha Vĩ nghe tin vội vàng lên rước xuống Đồng-quả ; ở đó bổ dưỡng một tuần không thấy chuyển phải chở xuống Thác-đá và thơ trình Đức Cha dạy thể nào.

Ngày 18 Décembre có xe điện cố Giữ-việc cho ra rước thì Cha Hậu đưa vào Quinhơn ; tới nơi vào nhà thương liền, mà cha đã mệt nhọc quá, trí khôn đã lãng, song ai thăm cũng còn biết, còn nói chuyện đặng ít nhiều. Chiều 22 Cha thấy trong mình đã mỏn thì xin Cha Thạnh xức dầu và làm các phép ; qua 23 thì bất tỉnh, chiều ngày ấy Đức Cha và các Cha Làng-sông xuống thăm thì Cha chẳng còn biết ai nữa ; qua nửa đêm độ giờ thứ 3 qua một khắc thì tắt hơi, may có cha Thạnh cũng đau liệt nằm nhà thương bên phòng kề, nên rán giúp được người trong giờ sau hết.

Thảm thiết thay ! 30 năm làm thầy cả những lo giúp người ta trong giờ lâm tử chẳng quản đêm khuya, chẳng nệ khó nhọc. Ai đau liệt mà Cha chẳng sốt lòng? Ai hấp hối mà chẳng có Cha? Quis infirmatur et ego non infirmor?

Hay đâu đến lúc riêng mình thì lại phải tủi thân như thế, ở giữa chốn lạ lùng, tư bề những kẻ ngoại, một mình, với một đứa cháu bơ-ngơ, việc giúp đỡ linh hồn thâm gay, nhắc Chúa kêu bà cũng không tiện. Ấy đấng thầy cả lo cho người được ấm cúng trong giờ sau hết, mà cũng có đôi khi mình phải chết lạnh như thế ; song kẻ vưng tin lời Chúa, trọn niềm bổn phận, dầu làm sao Chúa cũng chẳng bỏ: Venite benedicti… infirmus eram. Et visitastis me.

Cha tắt hơi đoạn đem xác về nhà thờ, chiều chở lên Làng-sông, qua 24 làm lễ qui lăng an táng. Rủi nhằm ngày áp lễ sinh-nhựt, các Cha địa phận không mấy ai về được, chỉ có Cha Miễn, Truyện, Quảng mà thôi, Cha Chân hát lễ, Cha Sử và Cha Tín làm thầy sáu thầy năm : Cha Perreaux đưa xác ; Đức Cha, các Cha các thầy các chú, và nhiều bổn đạo đưa theo xuống thánh địa, ai nấy mặt ủ mày châu, lòng sầu dạ thảm nỗi buồn nỗi tiếc bâng-khuâng ; tiếc vì mất đấng linh mục thông thái sốt sắng đã làm ích cho địa-phận nhiều bề ; buồn vì từ đây anh em chẳng còn đặng sum vầy cùng nhau nơi dương thế.

Cha Phêrô là người thông minh chữ nghĩa trổi cao. Khi còn học latinh mấy lớp dưới, tuy chưa trổ tài, song trí khôn sâu sắc, mau hiểu nhớ dai, các thầy giáo đều khen và bỏ bụng trông thầm. Chừng tới lớp trên, trí tài đua phát, đến lớp văn chương cùng khoa triết-học đã thấy trổi cao. Nói chi khoa lý đoán, thật đã tót vời : câu nào mắc mỏ, chỗ nào khó thông, hỏi tới thầy Lục, ắt thầy thưa giải trơn xuôi như chảy. Những bài luận giải về khoa lý đoán, thầy làm rất thông đúng thức nhằm mẹo, ý nghĩa cao sâu lời lẽ phân minh gọn-ghẽ, thầy giáo xem vô cũng chắt lưỡi khen thầm.

Còn về quốc văn thì cho là đúng hạng thông minh, những sách vở văn bài thi phú người đã làm đều chứng tỏ sự ấy. Người viết một cách dễ dàng mau chóng, dường như currenti calamo vậy, không mấy khi phải khó nhọc sửa đi viết lại như ai khác ; lời nói rõ ràng gọn ghẽ, ý vị nồng nàn, ai xem cũng đều ưa thích. Hai nhựt báo Nam-kỳ địa phận, và Lời-thăm lúc sơ khởi, tuy vạn sự đầu nan, mà có người gánh vác phụ đỡ thì đã tấn phát, nổi tiếng hầu khắp Đông-pháp, cùng vững bền đến nay.

Sách người đã dọn trước hết là Ấu học còn đang thông dụng trong các trường địa phận Qui-nhon, Saigon, Cao-miên ; lúc giúp nhà-in năm 1905 đã thừa mấy chút giờ rảnh mà chép ra, và nội trong hai tuần đã thành quyển sách. Người cũng chép sách Trung-học ; Thánh giáo tự lễ ; tiểu thuyếtSong nghĩa tự, Đồ của Hời  Hai chị em lưu lạc; cùng nhiều sách nhỏ về đạo-lý luân-thường để khuyến-khích nhơn dân ; lại còn đặt nhiều kinh văn dễ đọc dễ hát trong những ngày lễ. Trước đây đã thấy cha hay trở đi trở lại nhà trường, nhà-in mấy phen, ấy cũng về việc sách vở chữ nghĩa là việc ám hạp xứng tài xứng sức Cha, nên khó rời mấy chỗ ấy lâu.

Bề thông thái thì vậy mà việc bổn-phận sốt-sắng chẳng kém. Dầu sai đổi đi nơi nào, cha cũng chẳng phàn-nàn năn-nỉ, một vâng theo ý Bề trên. Tới đâu thì lo làm phần làm phước, giảng giải đạo lý, lấy sự khuyên bảo thúc giục bổn đạo năng xưng tội rước lễ là việc nhứt, ân-cần dạy dỗ kinh thiên, thương giúp binh vực kẻ mồ côi khó nghèo. Vốn tính cha cương trực khẳng khái, nên hễ thấy sự trái tai gai mắt thì làm thinh chẳng đặng, dầu có phải một bạn đồng liêu, cũng chẳng ngại nói ; bởi vậy mà kẻ chẳng rõ ý đôi khi cũng buồn lòng, song người quen thuộc chẳng những không chấp mà lại cảm tình mến phục vì biết rõ ; tuy lời nói có xủng xẳng, song kỳ trung vốn có bụng tốt lòng chung, chỉ muốn tìm ích cho người mà thôi. Cha có lòng sùng kính Rất Thánh Trái tim Đức Chúa Giêsu cùng Đức Bà cách riêng, hằng ra sức khuyên giục người-ta về đàng ấy. Lúc ở Đại-an dạy các chú, Cha đồng công hiệp lực với Cha bề trên Lý (P. Mugnier) mà khuyến-khích sự kính thờ và tôn Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu làm vua các gia thất, trường Đại-an đã làm gương trước hết trong việc nầy, dần-dần nhiều địa phận cùng nhiều gia-thất đã noi theo gương lành ấy. Cha cũng đã đặng phép Đức Cha ban chuẩn mà chép các lễ phép tôn Trái Tim làm một cuốn sách nhỏ và đặt những kinh sốt sắng thâm-trầm, miệng đọc lòng rất cảm động. Ngày nay trong cả lục tỉnh đâu đó đều sùng kính Rất thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, thì cũng nhờ lòng sốt-sắng hai cha đã tận tâm khuyến-khích. Lúc sinh tiền Cha đã hết dạ thờ kính, tận tâm trung thành, mong mỏi mở mang nước Đức Chúa Giêsu trong lòng nhiều người ; âu là khi lâm tử đến trước đài tiền, Đức Chúa Giêsu cũng đã xử nhơn-từ rộng-rãi với Cha, mà ban lời khen tặng: Euge serve bone fidelis, intra in gaudium Domini tui.

Vậy dầu Cha đã mất mà việc phước đức Cha còn bia tích, sách vở Cha vẫn lưu truyền, cho nên lòng thương nhớ Cha cũng chẳng bao giờ phai lợt.

Với tên thật hoặc lấy một số tên khác, Cha P. Lục đã xuất bản tại Làng Sông, những sách sau đây: Ấu học (1906), Tự lễ (1920), Hạnh Năm Thuông (1912), Trung học (1914), Nghị luận (1915), Tôn Trái tim (1919), Song nghĩa tự (1925), Nghề trồng dâu (1926), Hai chị em (1927), Hổ-lang chi tích (1927).


[1] Thời điểm Cư sở Nước Mặn được thành lập, biên thùy phía Nam của Đàng Trong là phủ Phú Yên, được giới hạn tại  Thạch Bi Sơn ( núi Đá Bia, Đèo Cả ).
[2] Đỗ Quang Chính SJ., Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt, Antôn & Đuốc Sáng, USA 6/2006, tr. 66.

Related posts