Cảm nhận và chia sẻ 

Cha Phêrô Đặng Xuân Thành, thêm một hạt giống mục nát đi

CHA PHÊRÔ ĐẶNG XUÂN THÀNH,

THÊM MỘT HẠT GIỐNG MỤC NÁT ĐI…

 dangxuanthanhMấy năm qua, Chúa đã đột ngột gọi về một số nhân sự trẻ sáng giá của Giáo hội Việt Nam khiến bao nhiêu người sửng sốt, hụt hẫng: Anh Phanxicô Xaviê Trần Duy Nhiên ở Sài Gòn, cha Bênêđictô Nguyễn Hưng của giáo phận Xuân Lộc, Cha Phaolô Nguyễn Văn Đông, dòng Đức Mẹ Lên Trời, mới 38 tuổi. Và nhiều người khác tôi chưa được quen biết… Bây giờ, cha Phêrô Đặng Xuân Thành…

Khi cha Thành bị hôn mê và nhập viện, một cựu chủng sinh từ Cam Ranh và một vị giáo sư gần 90 tuổi từ Nghệ An đã báo tin cho tôi. Trong ngày đầu tiên sau khi cha về với Chúa, một cha bạn từ Nha Trang, ba chị tu hội đời từ Bà Rịa, Đà Lạt và Sài Gòn, một giáo dân ngành phát hành sách ở Sài Gòn và một du học sinh Việt Nam từ Rôma nhắn tin, gọi điện hoặc email cho tôi trong nghẹn ngào. Con người vừa ra đi có một ảnh hưởng rất âm thầm mà cũng rất rộng rãi.

Tôi có chung với cha một quá khứ Tiểu chủng viện Thánh Giuse Qui Nhơn và Đại chủng viện Piô X Đà Lạt. Ngày những cánh chim Giáo hoàng Học viện tan đàn, cha đã viết một bài hát cho mình và cho anh em với câu đầu tôi không sao quên được: “Đôi khi bỗng thấy mình như thiền sư xuống núi – khi chưa nuốt hết vần kinh của trang sách thiêng – nhưng tai nghe tiếng Chúa kêu mời – nhưng tim rung tiếng nấc nhân loại – làm sao không nỡ khép môi cầu kinh…”

Câu hát như báo trước ơn gọi tu hội đời của cha.

Rời Giáo hoàng Học viện, người chủng sinh Đặng Xuân Thành phải về gia đình và làm công nhân ở Daklak. Ít lâu sau anh về Sài Gòn, trọ tại nhà bà con ở giáo xứ Sao Mai dạy ngoại ngữ, dịch thuật và biên tập sách tôn giáo vừa kiếm sống vừa tìm hướng thể hiện ơn gọi trong tình cảnh mới. Thời điểm ấy, tu hội Hy Vọng của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận vừa được sát nhập vào tu hội đời quốc tế Thánh Tâm Chúa Giêsu. Anh nhận dịch tài liệu cho tu hội, cả những bản văn riêng của tu hội Thánh Tâm Chúa Giêsu lẫn những sách mang tính thần học về ơn gọi tu hội đời nói chung. Những trang sách ấy đã sớm cuốn hút anh vào lý tưởng tu hội đời, những tu sĩ không áo dòng, không nội cấm, không có đời sống chung, chỉ mang theo ba lời khấn dấn thân đem Tin mừng của Chúa vào mọi lãnh vực trần thế. Tu hội Thánh Tâm Chúa Giêsu do cha Pierre Joseph Picot de Clorivière (1735-1820) sáng lập. Ngoài hai ngành nam độc thân và nữ độc thân còn có ngành dành cho các đôi bạn và ngành dành cho các linh mục. Năm 1981, cha Thành được thụ phong linh mục, một thành viên của tu hội Thánh Tâm Chúa Giêsu thuộc giáo phận Bắc Ninh nhưng vẫn tiếp tục phục vụ ngoài giáo phận.

Tôi cũng là một linh mục phục vụ ngoài giáo phận như cha. Hai anh em cùng nguồn gốc và cảnh ngộ nên khá gần gũi. Những lần về Sài Gòn, tôi vẫn thường ghé thăm và nghỉ đêm lại ở gác trọ của cha, chia sẻ buồn vui, sáng dậy dâng lễ và đọc kinh thần vụ với nhau, ăn sáng chung rồi ai lo việc nấy. Mấy năm sau, gia đình cha chuyển về Sài Gòn, ở giáo xứ Vườn Chuối, cha ở trên căn gác cao nhất; rồi mấy năm sau nữa, cha sắm được nhà cho tu hội tại quận 8, tôi cũng thường ghé thăm như thế.

Cuộc sống và cung cách phục vụ của cha cũng là một nguồn động viên cho tôi. Trước nhan Chúa, tôi rất ý thức trách nhiệm về ơn gọi của mình. Giữa cảnh sống lang bạt ngoài lòng giáo phận, tôi khao khát có tình liên đới, có bạn đồng hành để đứng vững. Tôi quen biết nhiều dòng nam với nhiều anh em rất thân thiết. Cuộc sống huynh đệ của họ thật đẹp nhưng tôi không muốn lìa bỏ tính cách một linh mục giáo phận. Giữa những trăn trở chọn lựa, con đường của cha De Clorivière đã lôi cuốn tôi. Là một linh mục triều, khi được đóng thêm dấu ấn của ba lời khấn để sống triệt để các giá trị Tin mừng, trong tình huynh đệ với những anh em cùng chí hướng tâm linh và trong tình nghĩa giáo phận, tôi chỉ được thêm chứ không mất mát gì. Năm 1991, tôi ngỏ ý và cha Thành nhận tôi vào giai đoạn tìm hiểu tu hội. Tháng Bảy 1992, bất ngờ tôi nhận được tiếng gọi thật rõ, tha thiết và đập mạnh vào tai, gần như không được phép từ chối, đòi hỏi tôi dấn thân để đem dòng Cát Minh Têrêxa ngành nam vào Việt Nam. Tôi xin cha cho chấm dứt giai đoạn tìm hiểu. Tháng Năm 1993, Đức Cha Phaolô Huỳnh Đông Các cho phép tôi xúc tiến thủ tục nhập dòng Cát Minh và mãi cuối năm 1999 tôi mới xin được giấy tờ đi châu Âu làm nhà tập. Ngày 09-9-2000 tôi được khấn lần đầu và cứ lặp lại lời khấn mỗi năm, cho tới tháng 9-2005 thì Ban Đào tạo cho biết tôi không có ơn gọi trong dòng Cát Minh. Vị tập sư của tôi là một linh mục người Mỹ đầy kinh nghiệm đã có những nhận định rất chính xác và đi đến kết luận ơn gọi tu dòng của tôi chỉ có tính cách giai đoạn, đã đến lúc tôi cần can đảm trở lại đời sống linh mục triều. Tôi rất buồn và trình sự việc với Bề trên Tổng quyền. Cha Tổng quyền đã có một quyết định ngược với kết luận của Ban Đào tạo. Thế nhưng, Thiên Chúa đã can thiệp. Tôi bị đau nặng đến độ theo cả giáo luật và hiến pháp dòng đều không được khấn trọn. Lúc ấy Bề Trên Tổng Quyền mới đổi ý, bảo tôi về lại với Giáo phận.

Tôi về lại Qui Nhơn ngày 08-9-2007, cha Thành đang phục vụ tại Hà Nội. Hôm sau, lời khấn dòng của tôi hết hạn về mặt giáo luật nhưng điều tôi đã phát nguyện trong tâm thì vẫn còn đó. Qui Nhơn – Hà Nội xa cách, ít khi chúng tôi có dịp gặp nhau. Tôi không tiếp nối câu chuyện Thánh Tâm Chúa Giêsu với cha Thành vì đã biết cách để bước trên con đường của cha De Clorivière, dù chỉ có một mình, với lời phát nguyện Cát Minh.

Khi nghe tin cha Thành được Chúa gọi về, tôi lục lại kỷ niệm thì tìm được lá thư đề ngày 23-12-2010, với đoạn mở đầu về sức khỏe: “Năm nay sức khỏe em trở nên kém hơn trước, đặc biệt trong bệnh cao huyết áp hay nói rộng hơn, chứng đau tim mạch. Có lẽ một phần vì tuổi tác, phần nữa là em không còn nhiều sức chịu đựng và khả năng thích nghi cao như trước kia…”

Hè năm 2011 chúng tôi gặp nhau lần cuối, khi cha đưa một số anh em linh mục Bùi Chu vào tĩnh tâm tại Qui Nhơn. Cha đào tạo các hội viên tu hội đời, đào tạo những chủng sinh trôi nổi, các chủng sinh đang ở chủng viện và cả các anh em linh mục trẻ chủ yếu bằng linh thao I Nhã. Không phải là linh mục Dòng Tên nhưng cha được ơn giảng linh thao rất kết quả. Với khả năng làm việc nhanh và có phương pháp, mỗi năm, cha đều soạn các đề tài linh thao thành một bài in thành tập cho những anh chị em không dự linh thao với cha có thể cùng chia sẻ.

Cuối năm 2011, khi duyệt lại bản thảo bộ sưu tập “Có Một Vườn Thơ Đạo”, tôi xin cha gửi cho những bài thơ mới của cha lịch làm việc của cha không cho phép. Tôi giữ nguyên những bài thơ cha viết trước năm 1997. Cha nhờ một chủng sinh chuyển từ máy vi tính của cha cho tôi một đoạn ngắn, chia sẻ với độc giả cả về tính trần thế trong hoạt động mục vụ lẫn về việc đào tạo:

“Có thể nói hai phần ba cuộc đời linh mục của tôi (hơn 30 năm cho tới năm 2012 – TTT) xoay quanh hai trục chính trong suy tư cũng như trong việc làm: Một là gắn bó với những con người “ngoài phố”, từ những người thân trong gia đình đến những sinh viên hay giáo viên tại trường lớp, những người làm công hay làm chủ, những người khác Đạo hay không Đạo, ngay cả những người có Đạo hay thuộc hàng ngũ những người tu hành cũng là những người sinh sống và tu trì “giữa đời”. Hai là gắn bó với công việc đào tạo (dưới nhiều hình thức như dạy ngoại ngữ hay thần học, viết lách hay dịch thuật, hướng dẫn tĩnh tâm hay đồng hành thiêng liêng). Bên ngoài có thể là những lựa chọn có phần nào do hoàn cảnh bắt buộc, nhưng sâu xa bên trong là đáp lại một lời mời gọi của Thiên Chúa – một lời mời gọi không phải chỉ bắt đầu với thái độ và lập trường của Giáo hội Công Giáo trong công đồng Vaticanô II (đồng hành với nhân loại), mà đã có từ xa xưa qua cách ứng xử của Thiên Chúa với dân Do Thái trong lịch sử (nhập cuộc và hành động). Đó là lời mời gọi nhìn ra bước đi của Chúa trong chuyển biến lịch sử hết sức cụ thể của những con người, nghe ra tiếng nói của Chúa trong những động tĩnh hết sức tầm thường của những cuộc đời. Và cũng vậy, trả lời cho Chúa qua những câu nói ấp úng – những cử chỉ đơn sơ – những hành vi giản dị của con người… Phải chăng đó là công việc của một ngôn sứ có Đạo? Hay cũng là công việc của một người làm thơ tôn giáo?” (Có Một Vườn Thơ Đạo, Nxb Phương Đông 2012, tập 3, trang 427).

Tin cậy vào kinh nghiệm đào tạo của cha, khi cha Nguyễn Khắc Bá, giám đốc chủng viện Vinh Thanh mời tham gia ý kiến cho bản định hướng nội quy của chủng viện (http://daichungvienvinhthanh.com/category/chung-vien/quy-che/), tôi đã chạy đến với cha. Trong phần còn lại của lá thư ngắn cuối năm 2010 nói trên, cha trả lời câu hỏi của tôi, bằng mấy dòng thật súc tích gãy gọn và chính xác, khá trùng khít với những gì cha đã sống tại Sài Gòn trước kia cũng như với đoạn chia sẻ trên đây: “Em rất thích cách trình bày Quy Chế cho chủng sinh của giáo phận Vinh. Chỉ xin đề nghị: Nếu đã muốn chia các bộ môn học thành ba nhóm: Mầu nhiệm, Hiệp thông và Sứ vụ thì nên phân phối các môn ấy đều các năm học, nghĩa là năm nào cũng có mấy môn thuộc khối này và khối kia. Cũng nên chú ý tập cho chủng sinh tập quán và sự ham mê làm việc trí thức riêng và chung, qua các nghiên cứu, dịch thuật và biên tập. Ngoài ra, trong mảng đào tạo tâm linh, nên chú ý hơn đến tinh thần và những việc khổ chế tự nguyện, khả năng đọc và thi hành ý Chúa trong cuộc sống. Trong mảng đào tạo nhân bản, chú ý hơn tới đức tính trung thực và thành thật, đặc biệt tránh thói chỉ tập sống khéo léo hay khôn ngoan thế gian (đừng đồng hóa khéo léo với đức khôn ngoan của Tin mừng)”.

Có người hỏi tại sao Chúa lại sớm gọi những người như anh Nhiên, cha Hưng, cha Đông và cha Thành ra đi đang khi Giáo hội Việt Nam đang cần họ biết mấy? Liệu phải chăng sau khi họ đã gieo rồi, Chúa còn muốn họ trở thành phân bón cho những hạt mình gieo? Hay chính họ vừa là người gieo hạt vừa là hạt giống Chúa gieo, phải mục nát đi để trổ sinh nhiều hoa trái? Tôi nghĩ có lẽ là cả hai. Như Charles de Foucauld, họ phải qua đi để cho những hạt mầm sớm nẩy nở đều khắp và mạnh mẽ. Tôi tin rằng sự ra đi của họ là cơ hội để Chúa Thánh Thần làm bùng lên ngọn lửa họ đã nhen trong lòng những người đã gặp gỡ họ. Sẽ có thật nhiều người tiếp tục con đường của họ với những bước chân đầy bản lãnh và sức mạnh của Chúa Thánh Thần để Giáo hội Chúa trên Quê hương Việt Nam tiến bước vững chắc trên giai đoạn mới: thời của những vị thánh hiển tu. Để dẫn chứng cho niềm hy vọng ấy và để kết thúc bài viết tưởng niệm, tôi xin được trích đoạn tâm tình chia sẻ của Art. Bụi Đá, một học trò của cha Thành, viết từ trời Âu:

 “Những ngày qua đất trời Roma đang chuyển mình, nó khua dậy những luồng
khí lạnh đến buốt thịt thấu xương. Trong giữa tiết trời giá đông ảm đạm, tôi lại nhận được tin Cha giáo Phêrô Đặng Xuân Thành ra đi đột ngột sau cơn tai biến não… Những ký ức về một người Cha, một người Thầy… bất chợt ào về, khiến cho tâm hồn người học trò tha hương tê tái như muốn bỏ lại sau lưng những nỗi lòng trĩu nặng …

Mùa thu năm 2005, tôi có duyên may gặp Cha giáo Đặng Xuân Thành, khi Ngài ra giảng dạy và làm việc tại Đại Chủng Viện Hà Nội. Ngay từ lần gặp đầu tiên, Ngài đã để lại trong lòng tôi sự kính trọng và khâm phục; bởi vì Ngài không chỉ là một giáo sư văn võ song toàn (có lẽ tác giả định viết là “tài đức song toàn” – TTT) mà còn là một “người thầy tâm linh” có tâm huyết với Giáo hội, có tinh thần xây dựng, có tri thức uyên thâm, có sự hiểu biết ngọn nguồn, có trải nghiệm thâm niên, có tâm hồn thanh cao, có trái tim rộng mở, có tấm lòng bao dung… Chính qua những lần gặp gỡ bàn hỏi với “vị thầy tâm linh này”, Ngài đã khơi dậy và chỉ bảo cho tôi những lý tưởng sống cao đẹp, những hy sinh rất tầm thường, những nẻo đường nên tung bước để luôn biết sẵn sàng dấn thân phục vụ ‘vì một Nước trời cho Quê hương’.”

Qui Nhơn, 30-11-2013

Lm TRĂNG THẬP TỰ

Related posts