Thần học 

Điều răn “Mới”, tại sao?

ruachanJack Mahoney SJ

Diễn từ của Chúa Giêsu tại Bữa ăn tối cuối cùng trong Tin Mừng Thánh Gioan đã làm các độc giả say mê song cũng khiến họ bối rối. Giống như những diễn từ khác trong Tin Mừng thứ tư, bản văn chứa đầy những ngắt đoạn khó hiểu, những câu chưa hết ý và những đoạn lập lại. Trong số những giải thích về cấu trúc kỳ lạ này, Raymond Brown chấp nhận cách giải thích tương đối đơn giản là tác giả Tin Mừng đã biên tập đến hai lần và rồi một ai đó trong cộng đoàn của Thánh Gioan đã sắp xếp lại[1]. Kết quả là hai dị bản được đặt cạnh nhau, khác nhau tí chút nhằm thích ứng với những tình huống khác nhau, cách sử dụng những đoạn văn kép này rất phổ biến trong Ngũ Kinh. Brown lưu ý rằng “những gì được nói trong Diễn từ cuối cùng ở chương 15, 1-31 cũng được nói lại trong chương 16, 4-33”[2]. Và Perkins thì cho rằng nội dung của bài diễn từ “dường như đã được phổ biến trong thời gian biên tập cuốn Tin Mừng (Gioan), và có lẽ trình bày những hoàn cảnh khác nhau trong lịch sử sau này của cộng đoàn Thánh Gioan”[3].

Cụ thể, thật thú vị khi nhận ra trong bài diễn từ vào Bữa ăn tối cuối cùng, Chúa Giêsu huấn dụ các tông đồ tại hai nơi chốn khác nhau rằng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương họ, và như vậy ngữ cảnh cũng khác nhau. Đoạn đầu tiên được tìm thấy trong Ga 13, 33-36:

Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau

Perkins nhận xét rằng “giới răn nằm lạc lõng ở vị trí này bởi vì tiếp theo đó là chủ đề cuộc ra đi của Chúa Giêsu”[4]. Thế nhưng vị trí này được cố ý lựa chọn. Bối cảnh cuộc ra đi sắp đến của Chúa Giêsu dường như là lý do khiến Ngài ban giới răn này cho các tông đồ. Hàm ý của giới răn không phải là tình yêu của họ dành cho nhau phải lớn lao bằng tình yêu của Chúa Giêsu dành cho họ, nhưng vì Chúa sẽ phải rời bỏ họ và tình cảnh mới này rất thích hợp để ban cho họ một điều răn mới là: như Ngài đã yêu thương họ khi còn ở với họ, nên từ nay họ phải thay thế Chúa Giêsu để yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Một trong những mục đích khi viết Tin Mừng Thánh Gioan dường như là nhằm giải quyết sự chia rẽ trầm trọng trong cộng đoàn Thánh Gioan (như ta thấy trong Thư thứ nhất của Thánh Gioan). Vì thế, tác giả Tin Mừng có lẽ đã đặt Chúa Giêsu ở đây để khuyên nhủ mọi môn đệ tương lai của Ngài phải làm trung gian cho tình yêu nối dài của Ngài với tha nhân sau khi Ngài đã ra đi, và như vậy gìn giữ được sự thống nhất mà Ngài hằng thiết tha cầu nguyện.

Đây là đoạn duy nhất trong Tin Mừng Thánh Gioan (Ga 13, 33-36) mà trong đó Chúa Giêsu gọi điều Ngài ban cho các tông đồ là điều răn “mới”. Trong đoạn thứ hai, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ yêu thương nhau “như Thầy đã yêu các con” (Ga 15, 12-17), nhưng không nói đây là điều răn “mới”. Ngữ cảnh của đoạn văn thứ hai không phải là cuộc ra đi sắp đến của Chúa Giêsu, nhưng là sự sống của Ngài được trao ban cho các môn đệ, và điều đó như một mẫu gương cho họ để hiến chính thân mình cho tha nhân trong tương lai (Ga 15, 12-17): “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”

Tại sao gọi là điều răn “mới”?

Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích tại sao Chúa Giêsu ban điều răn “mới” cho các môn đệ. Cách giải thích đơn giản nhưng kém thuyết phục là Ngài chỉ thêm số mới vào Mười Điều Răn mà Thiên Chúa đã ban cho dân Israel qua ông Môisen. Một lý do khác hấp dẫn hơn nhưng cũng vẫn khó chấp nhận là khi khuyên nhủ các môn đệ phải yêu thương nhau, Ngài không làm gì khác hơn là lập lại “Đại Giới Răn” rằng họ phải yêu thương nhau như chính mình, điều mà Ngài đã trả lời cho câu hỏi về sự ưu tiên nào trong Mười Điều Răn. Tuy nhiên, điều răn mới không chỉ nói rằng các môn đệ của Chúa Giêsu phải yêu thương nhau nhưng họ phải yêu thương nhau “như Thầy yêu thương các con”. Đây là tính chất mới quan trọng cho huấn dụ luân lý của Chúa Giêsu. Dường như tiêu chuẩn và mẫu gương tối thượng của tình yêu thương Kitô giáo là tình yêu mà chính Chúa Giêsu bày tỏ và dành cho các môn đệ; và theo dòng lịch sử, điều này sẽ được khai triển thành những nền linh đạo lớn trong việc bắt chước và theo Đức Kitô. Vì thế, Perkins giải thích rằng “Điều răn này ‘mới’ ở chỗ nó không dựa trên luật điều yêu thương trong truyền thống Do Thái (vd. Lv 19, 18; 1QS 1:9-11[5]) nhưng là sự tự hiến mình của Đức Giêsu”[6].

Tuy nhiên. Điều răn “mới” này đôi khi bị xem như quá hạn chế vì dường như chỉ khuyên các môn đệ yêu thương nhau chứ không yêu hết thảy mọi người lân cận, khác với Đại Giới Răn. Thế nhưng cần phải lưu ý rằng diễn từ Bữa ăn tối cuối cùng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan đôi lúc hướng nhìn về cuộc khổ nạn và cái chết sắp đến của Chúa Giêsu, và thỉnh thoảng cũng là hướng nhìn lại từ sau cuộc Phục Sinh cho đến khi Ngài hoàn tất sứ mạng, vì thế, như C. H. Dodd đã giải thích, ‘đúng ra, người nói chính là Đức Kitô đã phục sinh và vinh hiển”[7]. Nhờ vậy chúng ta có thể hiểu được tại sao điều răn “yêu thương nhau” có tính hạn chế, như đã được nói ở trên là chỉ trong vòng các môn đệ với nhau, một điều rất tương phản với Đại Giới Răn khuyên phải yêu thương hết mọi người lân cận không loại trừ ai. Trong diễn từ này, dường như chính Đức Kitô phục sinh đang nói với cộng đoàn mà Thánh Gioan viết Tin Mừng cho họ, Ngài đang hướng dẫn họ phải giải quyết những vấn đề và hệ quả trong cộng đoàn mình như thế nào. Cũng như trong bất kỳ xã hội nào, luật lệ mà cứ lập đi lập lại để cấm một hành vi đặc biệt nào đó thì điều ấy cho thấy rằng hành vi đó phổ biến trong xã hội đó. Trong Tin Mừng và các thư của mình, Thánh Gioan (là tác giả hoặc là nguồn gốc) thường viết lập lại nhu cầu phải yêu thương nhau và sự đoàn kết giữa các môn đệ của Chúa Giêsu, thì điều đó cho thấy rằng những nhân đức này thiếu sót trầm trọng trong Giáo Hội của Thánh Gioan, và diễn từ Bữa ăn tối cuối cùng chỉ là cái cớ để Chúa phục sinh sửa chữa tình trạng đáng buồn này.

Luật của Giao Ước mới

Cuối cùng, có một chú giải rất hấp dẫn liên kết điều răn “mới” với giao ước mới. Như Raymond Brown nhận xét, tác giả Tin Mừng cho thấy rằng “mình đang suy tư về Bữa tối cuối cùng bằng những hạn từ giao ước”[8]. Như đã trình bày trước đây khi bàn về Mười Điều Răn, giao ước và các điều răn liên quan mật thiết với nhau: “Đức Chúa phán với ông Môisen: ‘Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Israel’ …. Và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Mười Điều Răn”(Xh 34, 27-28; cf Đnl 4, 13). Phía Israel trong giao ước với Thiên Chúa là phải trung thành tuân giữ các giới răn của Chúa, đổi lại, Thiên Chúa sẽ tiếp tục bảo vệ và thi ân cho dân Ngài cho đến khi họ đến và vào Đất Hứa. Tuy nhiên, như một kết quả cho sự phản bội giao ước liên tục của dân Israel ngay khi còn ở hoang mạc và cả khi đã tiến vào Đất Hứa, Thiên Chúa đã khiến cho dân Israel bị đô hộ và lưu đày, sau đó các ngôn sứ bắt đầu nói về một giao ước khác mà Thiên Chúa sẽ cam kết với dân trung thành được chọn lựa của Ngài:

Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. (Gr 31, 31-34)

Giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân tuyển chọn của Ngài, được ngôn sứ Giêrêmia tiên báo, không gì khác hơn là giao ước mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khai mạc vào Bữa ăn tối cuối cùng theo Tin Mừng Thánh Marcô, khi Ngài cầm lấy chén rượu và nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì nhiều người” (Mc 14, 24), được Thánh Luca lập lại bằng những lời này: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22, 20; cf. 1 Cr 11, 25).

Trong Sắc lệnh về Giáo Hội, sau khi trích dẫn đoạn Gr 31, 31-34, Công Đồng Vatican II đã nối kết giao ước mới với điều răn mới như sau:

“Chúa Kitô đã thiết lập minh ước mới ấy, đó là giao ước mới trong máu Người (x. 1 Cr 11, 25), Người triệu tập dân chúng từ dân Israel và từ các dân ngoại, họp thành một khối duy nhất trong Thánh Thần chứ không theo xác thịt, để làm họ nên dân tộc mới của Thiên Chúa…. Luật của họ là giới răn mới: phải thương yêu nhau như chính Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta (x. Ga 13, 34). Sau cùng, cứu cánh của họ, tức là phát triển thêm Nước Thiên Chúa, đã được Ngài khai nguyên trên trần gian, cho tới khi được Ngài hoàn tất trong ngày tận thế”[9].

Như vậy Chúa Giêsu là trung gian được Thiên Chúa chỉ định, và quả thực là tác giả của giao ước mới (Dt 12, 24). Và như giao ước trên núi Sinai qua trung gian ông Môisen có Mười Điều Răn là toàn bộ ý muốn của Thiên Chúa thì giao ước mới cũng đòi hỏi một điều răn mới để làm lề luật cơ bản. Dân mới của Thiên Chúa giờ đây có cam kết khác là phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương họ. “Gương mẫu cho tình yêu của các môn đệ là hành vi yêu thương tối thượng của Chúa Giêsu, từ bỏ cả sự sống mình”[10]. Cam kết này được ban hành dứt khoát khi Chúa Giêsu lên trời sai Chúa Thánh Thần xuống thành lập cộng đoàn giao ước mới, Giáo Hội của Đức Kitô. Lúc đó, nhờ tình yêu được biểu lộ cho nhau mà dân mới này được nhận ra, và như Chúa Giêsu đã tiên báo: “mọi người sẽ biết rằng các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13, 35).

chuyển ngữ
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính

—————————————————

[1] R. E. Brown, The Gospel According to John, Anchor Bible, 2 vols (London: Geoffrey Chapman, 1971) I, p. xxxix.
[2] Brown, I, p. xxv.
[3] P. Perkins, The Gospel According to John, New Jerome Biblical Commentary, 61:169.
[4] Perkins, 61:179.
[5] Tài liệu Qumran (NdT.)
[6] Perkins, 61:179.
[7] Brown, vol II, 585; Charles H. Dodd, The Interpretation of the Fourth Gospel (Cambridge: CUP, 1960), p. 423.
[8] Brown, II, p. 612.
[9] Lumen Gentium, §9
[10] Brown, II, p. 682.

Related posts