“Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: “Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc”.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người”. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Là Đấng mà hàng tỷ con người nam nữ đã và sẽ yêu mến, tuy thế vẫn là Đức Giê-su độc nhất vô nhị của riêng con, mang một nét đặc biệt đối với con suốt cả cuộc đời ? Là Đấng con không chỉ nhìn nhận như một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, cũng không chỉ noi gương để sống bác ái huynh đệ, song được con tuyên xưng như Nguồn mạc khải toàn bích, Đấng cứu rỗi duy nhất của nhân loại qua cuộc sống và cuộc tử nạn-phục sinh của Thầy ?
Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời”.
Nhưng lắng nghe không có nghĩa là để cho ai đó cứ độc quyền nói. Là ngôn sứ của Tin Mừng, chúng ta phải đòi (chứ chẳng phải xin) cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội được lên tiếng trong xã hội, Lời hằng sống được tự do ngân vang trên sách báo, các phương tiện truyền thông ; chúng ta phải làm sao cho mọi con người, mọi công dân đều có quyền phát biểu, nhất là những kẻ “thấp cổ bé miệng”
Người bảo họ rằng: “Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến”. Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.
Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: “Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra”. Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Sống xa Đức Giê-su trong thời gian và không gian, ông tổ của Phật giáo quả đã “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” với ông tổ của Ki-tô giáo. Hôm nay, cũng nhân dịp đối đầu với quan niệm rất ư vật chất của kinh sư và Pha-ri-sêu về ô uế thanh sạch, Đức Giê-su đã đưa ra quan niệm của mình, một quan niệm hoàn toàn đi vào chiều sâu tâm linh đồng thời mang một nội dung rất cơ bản và nhân bản.