Tin tức 

Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông

THÁNH ANRÊ NGUYỄN KIM THÔNG

 

Sinh năm 1790

Chết rũ tù ngày 15 tháng 07 năm 1855

chan Phước ngày 02-05-1909

Hiển Thánh ngày 19-06-1988

 

THÁNH ANRÊ NGUYỄN KIM THÔNG

 

Ông Trùm Anrê Nguyễn Kim Thông chào đời năm 1790 trong một gia đình công giáo đạo đức tại Gò Thị, thôn Xuân Phương, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Thân sinh là ông Nguyễn Kim Chánh và thân mẫu là bà Đặng Thị Mẫn. Gia đình ông bà Nguyễn Kim Chánh có 05 người con: Nguyễn Thị Tang, Nguyễn Yến, Nguyễn Thị Khánh, Nguyễn Kim Thông và Nguyễn Điều. Nguyễn Kim Thông là người con thứ tư trong gia đình nhưng tục lệ thường gọi là thứ năm (người con đầu là thứ hai), do đó Nguyễn Kim Thông còn có tên thường gọi là Năm Thuông.

Anrê Kim Thông lớn lên được học hành thông hiểu văn chương chữ Hán. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia và luân lý đạo đức Kitô giáo đã kết hợp tạo nên tâm hồn và ý chí của Anrê.

Anrê Kim Thông lập gia đình sinh được 09 người con: Tôma Nguyễn Kim Vệ (Thủ Ngọc); Gioan Nguyễn Kim Thới ; Anna Nguyễn Thị Lục ; Matta Nguyễn Thị Khâm ; Giuse Nguyễn Kim Quới ; Giuse Nguyễn Kim Thủ (linh mục) và 02 người chết khi còn nhỏ. Sau khi sinh hạ Nguyễn Kim Thủ, người vợ hiền của Anrê lâm bệnh và qua đời để lại đàn con đông, thiếu vắng bàn tay chăm sóc, quán xuyến công việc nội trợ gia đình. Ông đã tái thú cưới người vợ ở Mỹ Cang nhưng không bao lâu bà qua đời. Ông lại tục huyền cưới người ở Phú Yên, bà nầy cũng qua đời. Ông cưới đời vợ thứ tư ở Nước Mặn, sinh được một gái, sau là nữ tu Anna Nguyễn Thị Nhường, nhà phước Gò Thị.

Từ lúc còn trai trẻ, Anrê Kim Thông đã sớm được chọn vào bậc Thầy Giảng tại chỗ, nói đúng hơn vào hàng chức việc của giáo xứ Gò-thị.

Tại Đàng Trong, các chức việc, dưới sự lãnh đạo của các linh mục, họ điều hành các tín hữu trong họ đạo, giúp đỡ các bệnh nhân hấp hối, khuyên bảo, cố vấn cho nhiều người, ngăn ngừa hay cảnh cáo những gương xấu, chận đứng hay hòa giải những cuộc tranh tụng, quản lý tài sản Giáo hội, lo xây cất các nhà nguyện hay các nhà xứ.

Ông Anrê Năm Thuông chu toàn nhiệm vụ của mình với tinh thần hăng say, với lòng đạo đức sốt sắng và lòng bác ái hoàn hảo. Sau nầy ông được Đức cha Cuénot đặt làm Trùm Cả toàn tỉnh Bình định, lúc bấy giờ ông đã trên 50 tuổi. Làng cũng chọn ông lo việc xét xử,  hòa giải mọi người trong xóm làng.

Việc vừa đứng đầu trong hàng chức việc vừa có chân trong các chức làng thường mang lại lợi ích, nhưng cũng đòi hỏi nhiều trách nhiệm. Ông Trùm Anrê là người như thế, Ông Trùm có ảnh hưởng trên giáo dân mà cũng có ảnh hưởng trong làng, trong xã. Ông Trùm thường xuyên giao tiếp với các bậc vị vọng. Ông Trùm tham gia việc làng, như hội họp, xử kiện, hòa giải… Như vậy vai trò của Ông Trùm, chẳng những rất hữu ích cho đạo trong thời bình mà nhất là trong thời cấm cách. Ở ai khác có thể việc đời làm xao lãng việc đạo, nhưng ở Ông Trùm Anrê thì không bao giờ như vậy.

Ông Trùm rất tôn kính Đức Trinh Nữ Maria, nên đã lập một nhà nguyện dâng hiến cho Trái tim vẹn sạch của Đức Trinh Nữ ngay trong vườn nhà. Nhà Dòng Mến Thánh Giá Gò Thị không có một người bạn nào thân thiết hơn Ông Trùm. Nhà mồ côi Gò Thị không có một nhà “hảo tâm” nào rộng rãi hơn Ông Trùm.

Ông Trùm tích cực khai khẩn đất hoang, nộp thuế cho triều đình. Ông Trùm đã được vua Tự Đức ban tặng thẻ vàng: Cần Nông Nguyễn Kim Thông.

Điểm đặc biệt trong đời sống của Ông Trùm là lòng nhiệt thành với các vị thừa sai, nhất là đối với Đức cha Cuénot. Trong những năm tháng dài, dù hiểm nguy đến tính mạng, Ông Trùm đã bố trí cho Đức cha trốn lánh, tá túc ngay trong nhà mình, đón tiếp các Linh mục, các thầy giảng đến thăm Đức cha, phục vụ các ngài, phí tổn khá nhiều nhưng Ông Trùm không hề đòi một chút thù lao nào.

Sự nhiệt tâm này dù làm cho đời sống kinh tế của gia đình Ông Trùm nhiều lúc trở nên eo hẹp. Ông Trùm cũng chẳng nề hà. Điều làm cho Ông Trùm quan tâm nhất là làm sao chu toàn trách nhiệm đối với các tín hữu trong họ đạo, đặc biệt Ông Trùm rất chú tâm đến việc bảo đảm an toàn cho Đức cha và các linh mục.

Do đó khi được các quan đòi lên tỉnh bất cứ vì lý do gì, Ông Trùm vội đi ngay, đối đáp, trao đổi sao cho ít thiệt hại nhất, và khi ra về vẫn giữ sự liên lạc xã giao với các quan, đến nỗi Ông Trùm cũng gây được tình thân hữu với các quan và khi hữu sự, các quan cũng nể nang đối với Ông Trùm. Tình trạng hữu nghị kéo dài khá lâu và người ta những tưởng là sẽ kéo dài mãi mãi. Nào ngờ vào năm 1854, Ông Trùm bị một người cháu nuôi tên là Út phản bội. Bị ông ngoại nuôi khiển trách vì đời sống lôi thôi của mình, cũng như tức giận vì chú và dượng, con và rể của Ông Trùm Anrê, không nhận nó vào sổ nhân đinh trong làng, đứa cháu vô phúc này tố cáo Ông Trùm bằng một lá thư nặc danh gửi lên Bộ Hình.

Ông Trùm Năm Thuông bị trát đòi lên dinh quan Tổng đốc Bình Định và bị giam vào ngục. Ông Trùm không buồn phiền vì việc này. Đức cha Cuénot gọi Ông Trùm và bốn người Công giáo khác bị tù với Ông Trùm là những “Đoá hoa của Giáo hội”. Ông Trùm quyết tâm trung thành giữ vững lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô. Quan Tổng đốc tỏ  lòng thiện cảm với Ông Trùm, không cho đánh đập Ông Trùm, thỉnh thoảng quan Tổng đốc cũng như cac quan thuộc cấp vui lòng để Ông Trùm về thăm gia đình. Những lần về thăm như vậy Ông Trùm đã tác động tinh thần mọi người. Ông Trùm khuyến khích mọi người can đảm, khẳng định lòng tin của mình vào đạo thánh Chúa. Lời Ông Trùm sau đây ngày nay vẫn còn âm vang trong con cháu: “… Tôi đã già rồi, mệt mỏi, kiệt sức. Tôi không nuối tiếc gì phải lìa cõi đời này. Tôi vui lòng đón nhận khổ ải, sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Chắc chắn là tôi không làm gì để được phóng thích”.

Ông Trùm Anrê Năm Thuông đã trở lại tỉnh đường Bình Định và để mặc cho quân lính tống giam Ông Trùm vào khám đường. Rõ ràng Ông Trùm có thể lợi dụng cơ hội về thăm gia đình để tẩu thoát, nhưng Ông Trùm biết rõ hậu quả tai hại sẽ không lường được. Đó là sẽ có nhiều cuộc lục soát, phạt tiền, bắt bớ những người vô tội, những điều mà Ông Trùm không bao giờ muốn xảy ra.

Mặc dù có cảm tình với Ông Trùm, quan Tổng đốc cũng không thể kính trọng đức tin của Ông Trùm được. Do đó nhiều lần quan dạy đem Ông Trùm Anrê Năm Thuông ra giữa công đường và khuyên dụ Ông Trùm bỏ đạo. Thật sự ông xử sự rất nhẹ nhàng, không biết rõ đạo cho lắm, với một lòng xót thương với Ông Trùm già, quan ép Ông Trùm bước qua Thánh giá:

“Ông hãy bỏ đạo ông đi, cách thầm lén cũng được, rồi trở về với gia đình, xưng tội, thì ông có bị thiệt thòi gì đâu?” Ông Trùm trả lời: “Thánh giá mà tôi thờ phượng hôm qua, tôi không thể đạp hôm nay được”.

Lần khác Ông Trùm trả lời: ” Bị lưu đày và chết vì Chúa đáng mến chuộng hơn chối đạo “. Các bạn bè xác quyết : Ông Trùm Năm Thuông rất đạo đức, luôn cầu nguyện và năng lần hạt. Sau khi bị bắt 3 tháng, Ông Trùm bị kết án phải lưu đày tại Định Tường, tỉnh Mỹ tho, Nam kỳ. Con cái của Ông Trùm muốn can thiệp đút lót để giảm án, nhưng Ông Trùm không cho và nói lên một câu đầy lòng tin sâu xa: ” Hãy để thánh ý Chúa được thành sự nơi tôi “. Khi bà con, bạn bè Công giáo cũng như lương dân, biết tin Ông Trùm sẽ phải đi lưu đày, họ đến biếu Ông Trùm nhiều tặng phẩm, nhưng Ông Trùm chân thành cảm ơn họ và không nhận gì cả.

Trước khi đi lưu đày, Ông Trùm viết thư cho Đức cha Stêphanô (thư dài, theo thể lục bát) đại ý như sau: “Cúi lạy Đức cha, xin ơn trên phù hộ cho Đức cha. Từ khi việc đạo gặp khó khăn, cha con ly biệt, lòng con phiền muộn thương nhớ Đức cha. Bởi tội lỗi con, nên phải lìa mặt Đức cha. Nay con lại phải xa cách hơn nữa là phải đi đày biệt xứ. Nhưng con trông cậy vào ơn Chúa và xin Đức Mẹ hộ phù cho con thắng trận, không sợ xa xôi cách trở, song biết vui lòng chịu cho sáng danh Chúa. Quả thật ma quỉ, thế gian, xác thịt là ba thù hằng quấy phá con, bởi vì anh em bạn hữu, con cháu nài nỉ con đổi ý. Vậy xin Đức cha cầu nguyện cho con vững lòng thực hiện điều lòng con đã quyết. Con lấy sự xa cách Đức cha làm cay đắng, con đã khóc nhiều. Con xin gởi Đức cha trông nom hai con yêu quí của con là cha Thủ và chị Nhường. Phần con đã già, đã gần mồ, chẳng quản nệ gì. Xin phú dâng mọi sự trong tay Chúa. Con xin mượn những lời đơn mọn nầy để từ giả cha nhân lành, hầu tỏ lòng con thương mến cha. Kính bái. Con vô phúc bất tài. Anrê Thuông ký”.

 Mang gông trên vai, chân tay bị xiềng xích, Ông Trùm Anrê Năm Thuông và bốn đồng bạn khác bị toán lính áp tải đi lưu đày. Những người bị phát lưu, phải đi bộ qua các tỉnh Phú yên, Khánh hòa, Bình thuận. Quãng đường dài và cực nhọc, khi thì quanh co theo bờ biển, lúc thì len lỏi qua núi non hiểm trở, khi thì chui vào rừng sâu, lúc thì băng qua những đầm lầy, những đoạn đường đầy sỏi đá, những đoạn khác vượt qua bãi cát nóng cháy, có lúc phải đi qua những chiếc cầu tre lắc lẻo, lúc phải lội bộ qua sông.

Một ngày họ phải đi bộ từ bảy đến tám dặm như vậy, ngủ trong nhà tù thuộc các tỉnh hoặc tại công quán trong các làng xã. Họ cầu nguyện, chuyện trò với các lính gác, vui lòng chấp nhận những gian nan khốn khó của cuộc hành trình liên tục dai dẳng. chẳng bao lâu sức khỏe của Ông Trùm Năm Thuông sa sút trông thấy. Ông Trùm không thể đi theo kịp người khác. Người đứng đầu toán lính áp giải là một quan cấp nhỏ thương tình nới lỏng gông cho Ông Trùm. Nhờ vậy Ông Trùm già đỡ khổ đôi chút.

Lúc đi qua tỉnh Bình thuận, Ông Trùm sung sướng và được an ủi biết bao vì được xưng tội với người con thân yêu của mình là cha Giuse Nguyễn Kim Thủ. Cuối cùng đoàn người lưu đày đã đến Sài Gòn, thời gian đi bộ gần một năm sáu tháng. Nhờ sự dễ dãi của người miền Nam,  Ông Trùm Anrê Năm Thuông tiếp chuyện với nhiều tín hữu Tây Đàng Trong ở vùng lân cận. Người ta tin là Ông Trùm có đến thăm Đức cha Lefèbre đang trốn lánh tại Thị Nghè. Mọi người đều nài nỉ xin người ở lại Sài Gòn nhưng Ông Trùm Năm Thuông từ chối vì nếu chấp nhận thì coi như Ông Trùm đã thoả hiệp. Ông Trùm muốn uống cạn chén đắng là ra đi đến tận nơi lưu đày càng sớm càng tốt.

Trong lúc sức khoẻ Ông Trùm suy nhược, cha Dược, cha sở Chợ quán ban Bí tích Giải tội và Bí tích Xức dầu cho Ông Trùm. Người ta đưa Ông Trùm lên thuyền đến Định Tường Mỹ Tho. Như vậy Ông Trùm đã đến được nơi phát lưu do nhà vua chỉ định.

Các đồng bạn bị phát lưu với Ông Trùm, đến Vĩnh Long rồi từ giã Ông Trùm. Họ đến nghỉ tại một cộng đoàn ở Cái Nhum. Được Đức cha Cuénot và Đức cha Lefèvbre cho tin: Họ chịu nhiều đau khổ và lập nhiều công đức, cha chính Borelle đã đến thăm họ. Họ cho ngài biết tình trạng nguy ngập của Ông Trùm Anrê Năm Thuông, lập tức ngày hôm sau, cha chính gửi đến một thầy thuốc giỏi. Khi thầy thuốc tới Mỹ tho, Ông Trùm Cả vùng truyền giáo Bình Định vừa tắt thở, hôm ấy ngày 15 tháng 07 năm 1855. Có năm tín hữu quây quanh bên giường vào phút cuối cùng của đời Ông Trùm. Cha chính địa phận Tây Đàng Trong ghi lại những chi tiết súc tích trong bài tường thuật sau đây:

” Gần giờ hấp hối, Ông Trùm Năm Thuông biết là quan đã chỉ định Bác Chiên (Gò Bắc, Cổ Chiên, Mỹ Tho), vùng biên giới của tỉnh, là nơi phát lưu của Ông Trùm, Ông Trùm khẩn khoản xin họ dẫn Ông Trùm đến đó để lễ tế của Ông Trùm được trọn vẹn. Chẳng bao lâu Ông Trùm bị hôn mê. Thỉnh thoảng tỉnh lại, Ông Trùm xin những người đứng xung quanh cầu nguyện thay cho Ông Trùm. Thấy Ông Trùm kiệt sức, họ muốn tháo bỏ xiềng xích cho Ông Trùm, để đỡ nguy kịch hơn trong cơn hấp hối, nhưng Ông Trùm từ chối và dùng sức lực héo tàn của Ông Trùm đọc Thánh vịnh sám hối và thêm một vài kinh kính Đức Trinh Nữ Maria. Đó cũng là thánh danh được mấp máy trên môi,  lúc Ông Trùm trút hơi thở cuối cùng ” .

Đối với những người đã biết Ông Trùm, thì Ông Trùm Năm Thuông chết vì những khổ ải triền miên Ông Trùm phải chịu trong cảnh ngục tù, và vì những mệt nhọc cũng như những thiếu thốn kéo dài suốt cuộc hành trình lưu đày đến Mỹ tho.

Giáo hữu Vĩnh Long đã sang hợp tác với giáo hữu Định Tường rước thi hài Ông Trùm về Vĩnh Long an táng trọng thể tại Cái Nhum. Năm 1856, theo chỉ thị của Đức Giám Mục, các người con của Ông Trùm Anrê Năm Thuông là Thủ Ngọc và xã Quới đến tìm hài cốt cha của mình tại Cái Nhum. Họ đã đưa hài cốt Ông Trùm về Gò thị, các đại biểu mười lăm họ đạo ra nghênh đón long trọng. Hài cốt Ông Trùm Anrê được an táng tại nghĩa địa gia đình, phía trước nhà thờ Gò Thị. Hiện nay ngôi mộ vẫn còn và nhiều người quí mến người thầy, người ân nhân khả kính, đã đến kính viếng người.

Năm 1870 Đức cha Trí ( charbonier) tra xét sự tích tử đạo của Đức cha Thể và Trùm Cả Anrê lấy đầy đủ hồ sơ bằng chứng, gửi sang Rôma năm 1875 và ngày 13/02/1879, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tôn phong người lên bậc Đáng Kính. Năm 1890 Đức cha Hân (Van Camelbecke) thừa lệnh Toà thánh mở cuộc điều tra lần nữa và gửi hồ sơ qua Rôma. Đầu năm 1909, Đức cha Grangeon Mẫn thực hiện chỉ thị của Tòa Thánh cho lấy hài cốt và kiểm chứng theo giáo luật. Các xương lớn được gởi về Tòa Thánh, các xương khác được giáo phận trách nhiệm giữ gìn theo giáo luật. Ngày 02/05/19O9 Đức Giáo Hoàng Piô X đã tuyên phong Ông Trùm Trùm Anrê lên bậc chân phước.

Ngày 19/06/1988 tại đền thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong Ông Trùm Anrê Nguyễn Kim Thông lên hàng Hiển Thánh cùng với 116 vị Tử đạo Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Adrien Launay, “Les trente-cinq Vénérables Serviteurs de Dieu”, Paris, P. Lethielleux, 1907, p. 53-59.

G. Võ Đình Đệ

Related posts