Xã hội 

Văn hóa và… tha hóa

Giọt nước chảy lâu cũng làm thủng cối đá. Nhiều cái “bất mãn” nhỏ sẽ trở thành một cái “bất mãn” lớn. Nhiều sự tha hoá nhỏ sẽ trở thành một sự tha hoá lớn. Mà văn hoá thì nhất định không thể là tha hoá…

Một xã hội “đói” và “túng”

Tục ngữ có câu “Đói ăn vụng, túng làm càn”. Một xã hội mà người ta ăn vụng ăn trộm với nhau bằng nhiều cách là một xã hội “đói”. Một xã hội mà người ta làm liều bằng mọi cách bất chấp hậu quả là một xã hội “túng”. Trong đời sống xã hội, nếu cái gì đó cứ nhân lên theo chiều hướng “đói” và “túng” thì sẽ ẩn chứa những bất ổn.

Và thật trớ trêu, khi cùng với chủ đề “ăn vụng”, “làm càn”, người Việt mình lại nói như “trách” với kẻ “ăn vụng” rằng, đồ… ăn vụng không biết đường chùi mép. Thế là không biết từ bao giờ, cái thói ăn vụng trở thành chuyện của “kỹ xảo”, “tiểu xảo”, với ngầm ý rằng, phàm ăn bất cứ thứ gì cũng phải biết chùi sạch mép, kẻ nào không biết làm điều đó là kẻ ngu.

Điều này cũng tương tự như quan niệm “xấu che tốt khoe”. Vì vậy, cái xấu, thay vì được điều chỉnh cho tốt đẹp lên thì nó lại bị “che”, “chùi” đi cho sạch dấu vết. Trong đời sống ứng xử, cái được dư luận xã hội nói và bàn nhiều, hẳn cái đó đang thuộc dạng “có vấn đề”. Nhưng nói một cách khác, bóng bẩy- người ta lại cho là “lên ngôi”. Gần đây rộ lên chủ đề về cái ác, sự vô cảm, gian dối…

Chính bởi tâm lý “che giấu” và hành vi chùi sạch dấu vết ấy mà văn hoá tự chịu trách nhiệm bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Khi không có văn hoá này thì không có luôn văn hoá xin lỗi, văn hoá từ chức.

Trong tương quan nhân quả (tốt – xấu), không có văn hoá từ chức thì thói vô trách nhiệm, thói lộng hành sẽ thắng thế. Ai cũng rõ, có những chuyện người dân phải thốt lên: “Sao ông ấy làm nhiều chuyện sai trái vậy mà không thấy ông ấy từ chức?”.

Nhưng thực tế không những chẳng có sự xấu hổ xin từ chức nào mà những người dám nói thẳng, nói thật còn bị trù dập, trả đũa công khai. Thế là người ta lại ví “ếch chết tại miệng”. Rồi từ những cái “chết” bất thường ấy mà không ít người mang trong mình một nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với nạn tham nhũng, lạm quyền.

Một khi người ta không còn dám nói lên tiếng nói của mình mình, không nghĩ bằng cái đầu của mình, không nghe bằng đôi tai của mình, không đi bằng đôi chân của mình, thì dĩ nhiên thói nịnh bợ để tiến thân, thói cầu toàn, an phận sẽ xuất hiện.

Trước đây, người ta lấy mệnh Trời ra để đe nẹt con người, rằng phải biết sợ Trời. Trời là quyền lực tối cao. Trời sinh ra đế vương và cử họ xuống để trị dân. Nhà nước, chính quyền cũng là những đại diện của… Trời. Thần thánh trong thiên hạ cũng được các đế vương phong làm thần để ban ơn hay giáng họa cho con người. Nói chung, lúc nào cũng có sẵn một thứ quyền lực siêu hình sẵn sàng trừng phạt con người.

Đi chung với nỗi sợ hãi thường là những mâm lễ to nhỏ khác nhau mà người ta đội đến để cầu xin thánh thần. Không ít người nghĩ rằng ở đời hễ cứ đưa nhiều lễ thì việc sẽ mau thành, thế nên muốn thần thánh phù giúp thì cũng phải làm như vậy.

Nhằm che giấu những giới hạn về năng lực, về mặc cảm tội lỗi, hèn kém, người ta nghĩ rằng có thể nhờ cậy thần thánh xoá tội cho, bất kể trong cuộc sống họ làm giả, làm gian, lừa lọc để kiếm tiền như thế nào. Thần thánh là đấng bảo kê, chỉ cần tin là đủ.

Thay vì người dân ít phải sợ thần thánh và yên tâm đi ngủ mà không cần đóng cửa, thì nay, thần thánh hiện diện ở khắp mọi nơi, nhưng người dân vẫn phải mua đủ thứ khoá, tìm đủ mọi cách để chống trộm.

Tương quan với nạn trộm cắp ấy, tiếc thay, nạn tham nhũng vẫn là chuyện nổi cộm. Đáng nói những kẻ tham nhũng này lại đông và có “quyền lực” không khác gì thần thánh, thậm chí chúng còn tạo cho mình vỏ bọc “công đức” khi xây cả đền cho thần thánh ngự.

Khi con người không tự thiêng liêng mình thì thần thánh sẽ mất thiêng, bởi ông bà mình đã đúc kết “linh tại ngã, bất linh tại ngã”.

Nạn tham nhũng vẫn là chuyện nổi cộm. Ảnh minh hoạ

Xấu che, tốt khoe?

Khi các giá trị bị “mất thiêng” thì văn hoá ứng xử trở nên thiếu kiềm chế. Điều này thấy rõ trong văn hoá giao thông.

Đèn hiệu và những quy tắc giao thông nhắc nhở người ta biết kiềm chế và tuân thủ luật pháp. Nhưng họ vẫn cứ tranh giành bất cứ khi nào có thể. Giành đường giống như giành quyền, thậm chí giành cả những quyền được ưu tiên của người khác (như xe cứu thương, cứu hỏa…).

Người phương Tây sang Việt Nam, họ không vượt đèn đỏ dù đường không có người qua lại, vì từ lâu trong đầu họ có một ý thức rằng đèn đỏ ấy đã bảo họ dừng lại, dừng lại không chỉ mang an toàn đến cho người khác mà còn giữ an toàn cho chính mình.

Hai cách ứng xử trong giao thông ấy chỉ ra con đường đi cho tương lai của một quốc gia. Nếu họ không biết dừng lại đúng lúc thì họ sẽ không thể vững vàng mà đi tiếp được.

Khi ta có đèn xanh để bước đi thì ta hãy tự hào mà bước đi, vì đó là sự tôn trọng của công lý, luật pháp dành cho ta. Không phải tranh giành hay bợ đỡ, lấy lòng ai để đi cả. Luật pháp phải cho người dân biết họ được làm gì và không được làm gì. Muốn thế luật pháp ấy phải công bằng, và những người thực thi nó phải công khai, minh bạch.

Minh bạch thì sòng phòng trong xây dựng “thương hiệu”, không phải đánh bóng tên tuổi bằng cái “mặt tiền ảo”. Đáng tiếc, cái “văn hoá mặt tiền” của người Việt đang chệch hướng bởi chính quan niệm “xấu che, tốt khoe”.

Không ít ngôi nhà có vẻ ngoài hào nhoáng, nhưng bên trong thì nhếch nhác, thiếu tiện nghi và nhà vệ sinh thì khá ô uế. Cứ nhìn vào nhà vệ sinh của những trường đại học, nơi xuất xưởng những trí thức tương lai của dân tộc thì sẽ rõ.

Họ sợ bẩn đến mức không dám cùng nhau giữ gìn vệ sinh chung đã đành, mà còn làm bẩn thêm để tra tấn chính nỗi sợ bẩn của mình. Câu ví “cha chung không ai khóc” phản ánh thói tư lợi, ít nghĩ đến việc chung của người Việt mình.

Không chỉ có thế, người viết từng chứng kiến một phụ nữ ăn mặc sang trọng đến dự lễ tốt nghiệp của bạn bè (hay người thân gì đó). Khi mua hoa để tặng, cô ta dùng chân đá hờ vào bó hoa và hất hàm hỏi “bó này giá bao nhiêu?”…

Ngay cả ở cái chỗ cần sự trân trọng và lòng thành với cái đẹp cũng chỉ đáng để người ta “đá chân” cho xong thủ tục, thì chả trách gì những vụ cướp hoa, giẫm đạp lên hoa cứ thản nhiên diễn ra ở một số lễ hội tôn vinh cái đẹp.

Trong văn hoá, giữa cái được và cái mất, người Việt mình ít nhìn xa, mà chỉ nhìn vào những cái lợi trước mắt. Cứ nhìn vào một số di sản tinh thần thiêng liêng, gắn bó lâu đời với tâm hồn, tình cảm của người Việt như chùa Hương, Yên Tử, đền Trần sẽ thấy ngay.

Người ta đang thương mại và hiện đại hoá lễ hội một cách vô tội vạ, từ việc xây mới các công trình xa lạ với thẩm mỹ người Việt, đến việc dựng cáp treo, bày biện hàng quán với đủ thứ thịt rừng, rượu bia để hút khách…

Có bài báo viết, “Việt Nam không phải là một chiến trường”. Bài viết khá hay, nhưng sao lâu nay người ta vẫn cứ nhìn mình như đang ở tình trạng… chiến tranh?

Chiến tranh khiến người dân trở nên mất an toàn. Dư luận xã hội từng đau xót khi so sánh, đất nước không có chiến tranh mà mỗi năm hơn 10 ngàn người phải chết vì tại nạn giao thông.

Không nên nhầm lẫn giữa chiến tranh bảo vệ chủ quyền và thói bạo lực, vô cảm làm tổn hại nhiều nhân mạng. Nhưng một khi con người chỉ vì mục đích đạt “lợi nhuận” (GDP) cho mỗi nhiệm kỳ, mà quay lưng lại với lợi ích của dân, thì “chiến tranh”, xung đột nào phải đã lùi xa.

Văn hóa và phản văn hóa gần nhau trong gang tấc

Nhìn một cách tương quan hơn sẽ thấy, chiến tranh đâu chỉ diễn ra giữa người với người mà còn giữa người và tự nhiên vạn vật. Cái thói quen ăn nhậu, được diễn giải như một thứ văn hoá “nam vô tửu như cờ vô phong”, không chỉ ăn sâu trong luỹ tre làng, mà ngay cả những giới văn sĩ, trí thức.

Cứ hội họp là mặt đỏ phừng phừng với đủ mọi loại tranh cãi, lý luận… Gần như không chừa một loại thịt thú rừng, bò sát, côn trùng nào, cứ ăn được là sẽ lên bàn nhậu, kể cả con chó nuôi trong nhà, hứng lên cũng kiếm cớ vì nó… ngu, để lôi ra làm thịt.

Cái thói quen xẻ thịt thú rừng, xẻ thịt tự nhiên để “ăn nhậu” phổ biến như thế thì việc người với người dễ “oánh nhau”, thậm chí sát hại nhau chỉ vì những cái cớ rất vớ vẩn, đôi khi cũng chỉ cách trong gang tấc.

Không chỉ có thế, với thù oán người mình không “cởi” mà thường “kết”, thế nên ngay cả trẻ con cũng nói với nhau rằng “quân tử báo thù mười năm chưa muộn”. Mới hay cái tâm lý báo thù ấy luôn sẵn sàng được nuôi dưỡng trong ý chí, đầu óc, để gặp dịp là xuống tay tàn độc với nhau.

Người Việt mình cũng ưa chụm đầu thù tạc, chuyện hơn kém hay dở của người miền này, miền kia và bắt đầu cho những “cuộc chiến” về ý thức sắc tộc, vùng miền, dòng họ… Đi với nó là sự tự tôn thái quá, thấy cái gì của mình cũng là hay của người khác là dở. Đó là chưa kể đến những cuộc đua chen xây mồ to mả đẹp, nhà thờ họ hùng vĩ… theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”.

Ai cũng muốn phần hơn, tốt, phấn phát về mình nên nghĩ việc chọn đất chọn cát, biến những mảnh đất tốt đẹp để đặt xác chết, để lo việc phát tài, phát lộc, phát quan tới muôn đời (mà thực tế thì chưa từng xảy ra chuyện đó). Trong khi những nơi xanh tươi như rừng núi, sông hồ thì tha hồ khai thác đủ các loại sản vật để thu lợi. Và việc thu lợi bất chấp hậu quả ấy lại được “hợp thức hoá” bằng những từ như “mả phát”, “trời cho ăn lộc”…

Có nhiều những chuyện cần phải chỉnh sửa ngay như: Ô nhiễm môi trường; nhà cửa, đường phố nhếch nhác bẩn thỉu; tiểu tiện giữa đường, ít quan tâm đến vệ sinh công cộng… Văn hoá và phản văn hoá gần nhau trong gang tấc.

Quán cơm vỉa hè là một nét văn hoá đặc thù, nhưng nếu bao nhiêu cái bát bẩn cũng cứ rửa chung một chậu, thức ăn để gần cống rãnh, khách ngồi ăn vứt rác, vứt xương, vứt vỏ ốc… đầy dưới chân mình, thì nhất đinh nó không còn là văn hoá nữa mà là sự ô uế, bẩn thỉu.

Thói quen ăn nhậu bất kể giờ giấc cũng tạo thêm sự bất lương cho những loại thực phẩm kém chất lượng tràn lan. Bởi khi những con ma men không còn có đủ ngũ quan tinh tường để nhận ra đâu là thịt thối đâu là thức ăn, thì bọn vô lương sẽ lợi dụng để tuồn hàng “độc”.

Khi độc hại được tẩm vào bất cứ loại thực phẩm nào, thì sự giả dối, lừa lọc lên ngôi. Đúng với câu nói “bệnh tự miệng mà vào”. Tuy nhiên, có điều người ta phải mất tiền, mất công, mất sức, mất thời gian để đưa những thứ độc hại ấy vào cơ thể, chỉ vì không nhận ra được lòng người đã độc đến mức không còn thuốc tẩy độc.

Trong thời đại công nghệ thông tin, không thể không nhắc đến cái văn hoá cả tin. Đọc gì, nghe gì cũng có thể cho ra một thứ “cả tin” khó giải thích. Lâu ngày tạo ra một loại “văn hoá tin đồn”. Tiếc thay, thói cả tin ấy cũng có sự “cổ vũ” của báo chí, với những loại tin tức không chính xác, những loại tin tức chỉ phục vụ cho những chuyện ở dưới cái đầu…

Giọt nước chảy lâu cũng làm thủng cối đá. Nhiều cái “bất mãn” nhỏ sẽ trở thành một cái “bất mãn” lớn. Nhiều sự tha hoá nhỏ sẽ trở thành một sự tha hoá lớn. Mà văn hoá thì nhất định không thể là tha hoá…

Tác giả: Thái Nam Thắng

Theo Tuanvietnam

Related posts