Thường Huấn 

Metanoia, nền tảng Kinh thánh và thần học

Lm. Phaolô Nguyn Minh Chính

 “Giáo hội đang kiếm cách đáp ứng những thay đổi thường xuyên của cộng đồng nhân loại toàn cầu nằm bên dưới tiến trình toàn cầu hóa trong bầu khí tục hóa về luân lý và văn hóa cũng như chủ thuyết vô tri. Những thách đố này đòi hỏi những ngôn ngữ mới, những phương pháp mới và trên hết là những chứng nhân đáng tin cậy để truyền bá đức tin cho những thế hệ mới, trong những bối cảnh xã hội mới. Trong khi vẫn ý thức về bổn phận rao giảng Tin Mừng, Giáo hội cần phải thi hành metanoia để có thể tự giới thiệu mình như là thầy dạy và là nhân chứng cho những người kiếm tìm Thiên Chúa, bởi vì khi loan báo Tin Mừng là Giáo Hội loan báo sự sám hối và ơn tha tội”[1]. Xem ra “metanoia” là bài tập không thể thiếu trước khi loan báo Tin Mừng cho thời đại mới. Vì thế, thật cần thiết khi tìm hiểu Kinh Thánh nói gì về “metanoia”.

I. T NG

1. Tiếng Vit (Hán-Nôm)

Metanoia” được dịch sang tiếng Việt là “sám hối” hay “hoán cải”. Tuy nhiên, đây không phải là hai từ thuần Việt.

2. Tiếng Do Thái

1.1 nacham [נָחַם,] – “th dài” (vì bun su)

1.2. shuv [שׁוּב] – “quay tr li”, “tr v

Từ shuv [שׁוּב] trong tiếng Do Thái có nghĩa là “quay trở lại”, “trở về”, thường được dùng để diễn tả ý tưởng sám hối trong Kinh Thánh. Các ngôn sứ thường dùng từ này để nói về thái độ thay đổi tận căn, một sự dứt khoát về luân lý và có ý thức, một quyết định cá nhân từ bỏ tội lỗi và quay về với Chúa (Đnl 4, 30; Nkm 1, 9; Tv 7, 12; Gr 3, 14), một sự thay đổi thiêng liêng do Thiên Chúa tác động (Tv 85, 4). Từ đấy phát sinh ra danh từ teshuva có nghĩa là “sự quay trở lại” hay “sự sám hối”.

3. Tiếng Hy lp

Có hai từ tiếng Hy Lạp được chuyển ý là sám hi, ăn năn..

 3.1. Metanoia

Theo cách sử dụng thông thường, meta có nghĩa là “thay đổi” và noia có nghĩa là “tâm trí”, như vậy,metanoia có nghĩa là thay đổi tâm trí của bạn. Nhưng với một nền tảng lịch sử ý nghĩa phong phú, bạn có thể hiểu được thay đổi căn bản nào mà nó muốn nói lên. Bạn không chỉ thay đổi tâm trí; bạn phải đi từ con nhộng đến con bướm. Bạn phải trải qua một quá trình metamorphosis triệt để. Bạn sống trong một thế giới khác”[2]

3.2. Metamelomai

Một động từ khác là μεταμέλομαι (metamelomai) có nghĩa là hối hận, tiếc nuối, luôn có một cảm giác buồn sầu đi kèm.

II. SÁM HI TRONG CU ƯỚC

1. Bi cnh Do Thái và Hy Lp ca “metanoia”

Kitô giáo phát sinh ở đất nước Palestine, nơi dân tộc Do Thái, giữa tư tưởng và văn hóa của người Do Thái, nhưng từ rất sớm, tôn giáo này đã lan tràn sang thế giới Hy Lạp, ở Tiểu Á, Hy Lạp, Ai Cập và Roma. Vì thế, để đánh giá giáo huấn của Tân Ước cách tương xứng thì phải xem xét đến môi trường Palestin và Hy Lạp của Kitô giáo sơ thời.

2. Ý nim sám hi trong Do Thái giáo

Dầu đối tượng chính của chúng ta là nghiên cứu quan niệm sám hối của người Do Thái thời Tân Ước, nhưng cũng nên dành một ít thời gian để nói về các ý niệm tôn giáo của người Do Thái trong Cựu Ước, bởi vì những ý niệm tôn giáo của Tân Ước đều dựa vào Cựu Ước. Trước hết là quan niệm về tội, bởi vì dù sao, tội và sám hối là những ý niệm có liên hệ với nhau.

2.1. Quan nim v ti

Ngày nay người ta tranh cãi rằng trong Cựu Ước không có ý thức về tội lỗi cá nhân, không có ý niệm về tội cá nhân mà chỉ là một ý tưởng mơ hồ nào đó về tội tập thể. Cả dân tộc chứ không phải một cá thể được nghĩ là có tội hay mắc tội. “Nếu những lý thuyết này, quan niệm về tội trong Cựu Ước sơ thời này mà đúng thì hẳn nhiên chúng ta không hy vọng gì tìm thấy bất cứ điều gì ngoại trừ mt ý tưởng mơ h và bt toàn v s sám hi, bởi vì quan niệm về sám hối dựa vào quan niệm về tội”[3]. 

2.2. Ti và sám hi cá nhân

Tuy nhiên, những lý thuyết này đều sai lầm vì người Israel nhìn nhận Giavê như người canh giữ luân lý và trực tiếp xúc phạm Ngài là một tội. Thật vậy, chúng ta thấy Cựu Ước có quan niệm về tội lỗi cá nhân bởi vì, theo người Sêmít nói chung, tôn giáo là có tính cách cá nhân. Như vậy trái với điều chúng ta thường nghĩ, dân Israel sơ thời đã có ý niệm về tội cá nhân và sự sám hối là điều kiện cần thiết để được hòa giải với Thiên Chúa.

2.3.  Các ý tưởng và hành đng sám hi

Cựu Ước chỉ có ý tưởng chứ không có một từ nào để nói về sự sám hối. Và ý tưởng về sám hối thì rất đa dạng. Sám hối là “tìm kiếm Thiên Chúa” (Đnl 4, 29; 2 V 12, 16), là “hướng thẳng về với trái tim của Thiên Chúa” (1 V 7, 3), là quay về tuân phục Thiên Chúa (Đnl 30, 2; 1 V 3). Như thế, ti là quay đi khi Giavê và sám hi là quay v vi Giavê, một sự quay trở lại. Vì thế cho nên, từ shuv thường được sử dụng để chuyển tải ý nghĩa này.

Trở về với Thiên Chúa cả tâm hồn lẫn linh hồn bao hàm s thay đi và xưng thú ti là phần chính yếu của sự quay trở về, hoặc sám hối (St 4, 9; 38, 26; Lv 26, 40, Ds 19, 40; Gs 7, 19; 1 Sm 15, 24; 2 Sm 12, 13; 24, 10). Vậy thì có nhng công vic đi lin vi vic sám hi trong Cựu Ước. Mục đích của những công việc sám hối này trước hết là nói lên bằng hình thức bề ngoài sự thay đổi của tâm hồn là điều chính yếu của việc sám hối.

3. Sám hi trong các sách ngôn s

3.1. Yếu t ni tâm

Sự nhấn mạnh trên yếu tố nội tâm trong mối liên hệ với Thiên Chúa là đặc điểm trong giáo huấn của các ngôn sứ về sự sám hối. Họ đòi hỏi sự thay đổi tâm hồn.

3.2. Yếu t con người…

Các ngôn sứ h không loi b yếu t con người trong vic sám hi. Sau hành động của con người là phần việc của Thiên Chúa. Những cây vả tốt tươi trong Gr 24, 4 ám chỉ những người đã sám hối sẽ được Chúa chúc phúc.

3.3. Và ân hu ca Thiên Chúa

Một phát triển khác là các ngôn sứ nhấn mạnh đến phn ca Thiên Chúa trong sự sám hối, sám hi là ân hu ca Thiên Chúa đng thi cũng là công vic ca con người.

3.4. Các đc đim ca sám hi

Đặc điểm nổi bật trong giáo huấn của các ngôn sứ về sám hối là s quyết đnh dt khoát. Yếu tính của sám hối là s ăn năn vì tội lỗi. Xưng thú ti li là một phần của sám hối thật sự. Các ngôn sứ cũng nhấn mạnh nhu cầu cần phi sa đi.

4. Sám hi trong các Thánh Vnh

Giáo huấn của Thánh Vịnh về sự sám hối cũng rất gần với các ngôn sứ. 

5. Kết lun v sám hi trong Cu Ước

Đặc biệt sám hối trong Cựu Ước là vấn đề nội tâm nhưng vẫn cần có những yếu tố bên ngoài. Trong khi sự ân hận của tâm hồn là điều chính yếu thì những yếu tố bên ngoài hoàn hoàn cần phải có. Con người gồm cả hồn lẫn xác. Vì thế, sự ăn năn bên trong hay sám hối phải được biểu lộ ra bên ngoài a) qua sự xưng thú tội lỗi. b) sự cải thiện, sửa đổi đời sống và c) đền tội qua các việc làm như cầu nguyện, khóc lóc và ăn chay.

III. SÁM HI TRONG TÂN ƯỚC

1. Giáo hun ca Gioan Ty Gi: “Metanoia-Teshuva”

Metanoia không chỉ là giáo huấn quan trọng và cơ bản của Tân Ước mà có thể nói giáo huấn của Gioan Tẩy Giả được tóm gọn lại trong từ metanoia, mặc dù dĩ nhiên Gioan không rao giảng bằng tiếng Hy Lạp. Gioan chỉ kêu gọi “Hãy sám hối” mà không cần giải thích ý nghĩa. Các thính giả của ông gồm những người Do Thái thuộc mọi tầng lớp cũng đã hiểu đầy đủ mà không cần lời giải thích gì thêm. Vì thế metanoia mà Gioan rao giảng là metanoia-teshuva mà người Do Thái khá quen thuộc từ trong Sách Thánh mà họ đọc hằng ngày trong hội đường, nếu không thì Gioan đã có lời giải thích. 

2. Li rao ging ca Chúa Giêsu

Chúa Giêsu cũng không rao giảng gì khác với giáo huấn đương thời của Do Thái giáo về sự sám hối. Ta có thể nói như thế nhờ hai sự kiện. Trước hết là Chúa Giêsu không phân biệt giáo huấn của mình với sứ điệp của Gioan. Thứ đến, giống như Gioan, Chúa Giêsu liên kết lời kêu gọi metanoia của Ngài với sự xuất hiện gần của Nước Trời. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu: “Hãy sám hi vì Nước Tri đến gn” (Mt 4, 17; Mc 1, 15) lập tức được người dân hiểu metanoia của Ngài như là sự sám hối chuẩn bị cần thiết cho Nước Trời sắp đến. Chính vì thế, ta có thể lập lại phương trình trên một lần nữa: Metanoia = Teshuva.

3. Đc Kitô sám hi

Thật ý nghĩa khi bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng dành 40 ngày thống hối như Môisen (Xh 34, 28) và Êlia (1 V 19, 4-8), và Ngài cũng đã giữ chay như tất cả những người đạo đức khác. Tân Ước hoàn tất Cựu Ước và không chối từ những gì đã là tinh thần thống hối đã được nhìn nhận trong Cựu Ước. Như thế, các thực hành vẫn còn đấy nhưng một tinh thần mới được thổi vào. Niềm vui Tin Mừng chiếu tỏa nơi những ai tham dự vào đời sống sám hối cùng với Đức Kitô. Như vậy, truyền thống mới không khác với truyền thống Do Thái qua các thực hành bề ngoài nhưng khác là do ý nghĩa của sám hối.[4]

4. Giáo hun ca các tông đ

Các tông đồ cũng rao giảng cùng một metanoia. Nếu chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đã minh nhiên ủy nhiệm cho các tông đồ rao giảng metanoia, và nếu theo lý luận tự nhiên chúng ta cho rằng các tông đồ phải dạy và rao giảng những gì mà người thầy đã dạy họ, thì chúng ta cũng không nghi ngờ gì về metanoia mà các tông đồ rao giảng.

5. Tác gi tht s ca metanoia

Thế nhưng nhờ đâu có được sự thay đổi này? Nhờ nỗ lực của con người nhằm hoán cải hay đúng hơn là sự đáp trả của con người trước sáng kiến nhưng không của Chủ Chăn nhân lành muốn tập họp những con chiên lạc mất (Lc 15, 4 tt). Như thế, chính Thiên Chúa chính là tác giả của sự sám hối thật sự, Ngài hành động trên tâm hồn được đổi mới bằng cách giúp họ nhận ra chân lý.

6. Kết lun v sám hi trong Tân Ước

“Ý tưởng sám hối và hoán cải rất quen thuộc với các thính giả của Chúa Giêsu và các tông đồ khi họ rao giảng ở Giêrusalem. Các ngôn sứ, và cuối cùng là Gioan Tẩy Giả, chẳng phải đã liên tục kêu gọi dân tuyển chọn phải hối cải sao? Chẳng phải các lời kinh của Israel đề cập nhiều đến sám hối sao? Chúa Giêsu không “ bãi bỏ” nhưng kiện toàn tất cả những mạc khải đã có trước này bằng cách dần dần đào sâu ý nghĩa của tội lỗi, trách nhiệm cá nhân và ân sủng bên trong”[5]

IV. BÀI HC SÁM HI CA PHÊRÔ
Trong câu chuyện khổ nạn của Chúa Giêsu, có hai người ân hận về những hành vi của mình là Thánh Phêrô và ông Giuđa. “Tội lỗi của Giuđa chỉ làm cho ông hối hận (metamelomai); còn tội lỗi của Phêrô làm cho ông sám hối (metanoeo). Cội rễ của sự khác nhau nơi hai người này là tính chất đối nghịch và khác biệt của mỗi người. Tuy nhiên, nguyên tắc của Giuđa là yêu mình còn Phêrô là yêu Chúa. Sự hoán cải là điều có thể đối với người này nhưng lại là điều không thể đối với người kia”.

1. Chi Chúa như Phêrô

Cả bốn Tin Mừng đều ghi lại ba lần chối Chúa của Thánh Phêrô (Mt 26, 69-75; Mc 14, 66-72; Lc 22, 54-62; Ga 18, 15-27).

Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã dùng những con người tầm thường cho mục đích ngoại thường của Ngài. Và khi họ lỗi phạm, Ngài ban cho họ ơn tha thứ. Như chính Phêrô nói trong sách Công V Thánh Phêrô 7, 20: ‘Đấng đã bảo vệ tôi khi tôi lỗi phạm và ban sức mạnh cho tôi, chính Ngài cũng sẽ an ủi bạn để bạn yêu mến Ngài” 

2. Sám hi như Phêrô

“Cả Mt và Lc đều thêm trạng từ “thảm thiết” vào câu “Phêrô khóc”. Lỗi lầm của Tảng Đá trong nhóm tông đồ được ghi nhớ vì nó nói lên sự yếu hèn thường tình của con người; đồng thời cũng đáng ghi nhớ vì Phêrô không che dấu hay lấp liếm lỗi lầm của mình. Lỗi lầm như thế thì không có thuốc chữa trị nào ngoài sự sám hối”[6]

3. Cái nhìn tích cc

Việc Phêrô chối Chúa đem lại nhiều suy tư. Các nhà chú giải nhìn sự kiện này dưới khía cạnh tích cực hơn là tiêu cực. Như vậy Thiên Chúa cho phép Phêrô vấp ngã để chính hàng giáo sĩ một khi chính mình kinh nghiệm được sự tha thứ sẽ tỏ lòng nhân hậu với những người thuộc quyền mình[7].

4. Bài hc “có bn quyn” ca Thiên Chúa

Thánh Phêrô đã nên người và nên thánh nhờ học được bài học của Thiên Chúa, một bài học không cần phải “update” theo thời gian mà vẫn luôn có giá trị cho bao thế hệ học trò mãi cho đến ngàn năm sau nữa: bài học đến từ Thiên Chúa và “có bản quyền” của Thiên Chúa!

KT LUN

“Hãy sám hối!”, đây không phải lời mời gọi thay đổi suy nghĩ mà là bước khởi đầu đưa đến hành động. Hành động là một phần không thể thiếu của sám hối. “Nhưng sau đó, nó hối hận, nên nó đi” (Mt 21, 29). Nếu người con cả trong dụ ngôn hai người con đi làm vườn nho chỉ thay đổi quan điểm và rồi cảm thấy hối lỗi vì những gì đã nói với cha, nhưng rồi cứ ngồi lỳ đấy với bạn bè thì anh ta chưa thật sự sám hối. Đó chỉ là một sự ân hận đơn thuần. Phần quan trọng của tiến trình sám hối chính là chúng ta làm điều mà trước đó chúng ta từ chối không làm. Vậy thì, Converte nos Domine ad te et convertemur![8]


[1] Thông tri của phiên họp lần VI của “Hội đồng thường trực Thượng hội đồng Giám mục”, xem tại http://visnews-en.blogspot.com/2011/12/church-is-in-need-of-metanoia.html

[2] THOMAS MOORE, Writing in the sand, Jesus & the Soul of the Gospel, Hay House, 2009, tr. 26-27

[3] ALOYS H. DIRKSEN, The New Testament concept of Metanoia, The Catholic University of America, 1932, tr. 115.

[4] Xem P. GRELOT, « Les signes et pratique de penitence”, Assemblées du Seigneur, số 25, tr. 52-55

[5] P. TERNANT, “Repentez vous et convertissez vous”, tr. 51, trong Assemblées du Seigneur,  số 21

[6] Xem RAYMOND E. BROWN, JOSEPH A. FITZMYER, ROLAND MURPHY, The New Jerome Biblical commentary, 1989.

[7] LUDOLF of SAXONY, Vita 60.21 = 49: “Prelatus Ecclesiae debet esse talis, qui infirmitatibus subditorum compati sciat.”

[8] Lạy Chúa, xin hướng con về phía Ngài để chúng con trở về (Ac 5, 21)

Related posts