Từ Léopold Cadière, nghĩ về những đóng góp của các giáo sĩ thừa sai với nghiên cứu Việt Nam
TỪ LÉOPOLD CADIÈRE, NGHĨ VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP
CỦA CÁC GIÁO SĨ THỪA SAI VỚI NGHIÊN CỨU VIỆT NAM
Nhà Sử học Đào Hùng
Léopold Cadière được đào tạo tại Chủng viện của Hội Truyền giáo hải ngoại Paris và được thụ phong linh mục năm 1892.
Ông xuất thân trong một gia đình trại chủ bình thường, không có truyền thống bác học, cũng không gần những trung tâm nghiên cứu khoa học của Pháp. Vốn tri thức của ông chắc cũng không ngoài những điều mà Hội truyền giáo hải ngoại cung cấp cho các giáo sĩ thừa sai để đi làm nhiệm vụ truyền giáo. Tuy không tiếp cận được chương trình đào tạo của các chủng viện, nhưng qua những gì đã được nhìn thấy, tôi có thể hình dung chương trình đào tạo phong phú và chặt chẽ của các chủng viện Pháp thời bấy giờ.
Đến Việt Nam một tháng sau khi thụ phong linh mục, ông được đưa về Tiểu chủng viện An Ninh thuộc Quảng Trị, rồi tiếp tục làm cha xứ ở vùng quê này, xa các trung tâm trí thức của Việt Nam thời bấy giờ, nên chắc cũng không có dịp tiếp xúc nhiều với giới khoa học người Âu ở đất nước thuộc địa này. Nhưng với một giáo sĩ thừa sai thì điều quan trọng nhất là được tiếp xúc với những người dân mà mình có bổn phận chăn dắt.
Vậy mà chính tại giáo xứ Cù Lạc, Cadière đã được gặp Louis Finot và thiếu tá Lunet de Lajonquière trong chuyến đi công cán cho Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp vừa mới thành lập. Louis Finot (1864-1935) là giám đốc đầu tiên của EFEO từ 1898 đến 1904, một nhà cổ tự học, chuyên gia về chữ Phạn, đã có nhiều công trình nghiên cứu văn bia Khmer, Lào và Chăm… Còn thiếu tá Lunet de Lajonquière là sĩ quan thuộc Trung đoàn 3 thuộc địa Bắc Kỳ, là cộng tác viên đầu tiên của EFEO từ 1899, nhà dân tộc học đã có nhiều công trình nghiên cứu về các dân tộc thiểu số miền bắc Việt Nam. Cuộc gặp gỡ giữa các học giả đã thành danh với một vị cha xứ trẻ tuổi vô danh ở cái xứ hẻo lánh này đã để lại những ấn tượng sâu đậm với các nhà nghiên cứu trên đường đi khảo sát văn hóa và lịch sử Việt Nam. Dù lúc đó Cadière chưa có công trình nghiên cứu gì đáng kể, nhưng chỉ qua cuộc tiếp xúc ban đầu, Louis Finot đã nhìn thấy ở ông một tài năng nghiên cứu đầy triển vọng. Họ đã kết tình bạn, và có lẽ đó sẽ là niềm khích lệ cho Cadière thêm tin tưởng trên bước đường nghiên cứu của mình. Sau này Louis Malleret, giám đốc EFEO từ 1950-1956 đã ghi lại rằng “Louis Finot thường nói, phát hiện đẹp nhất của mình trong chuyến công cán đầu tiên khảo sát Đông Dương chính là cha Cadière” (la plus belle découverte qu’il avait faite lors de son premier voyage d’exploration de l’Indochine était le R.P. Cadière).
Ngay từ số đầu tiên của tập san Học viện Viễn Đông Bác cổ BEFEO, Cadière đã có bài viết nhan đề “Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian ở thung lũng Nguồn Son”, ra mắt năm 1901. Như vậy chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm, sau khi đặt chân đến đất nước này, Cadière đã thông thạo tiếng Việt và đi vào nghiên cứu mọi mặt văn hóa Việt Nam. Thông thạo tiếng bản địa là yêu cầu đầu tiên đối với các giáo sĩ thừa sai trong nhiệm vụ truyền giáo, đó cũng là chỗ khác nhau giữa những nhà nghiên cứu trong giáo hội với nhiều nhà nghiên cứu Pháp thời bấy giờ. Vì hầu như các nhà nghiên cứu Pháp thời đó, mặc dầu đã viết rất nhiều sách về Việt Nam nhưng vẫn chưa đọc được các tư liệu tiếng Việt mà phải dựa vào phần lớn là thư tịch Pháp hoặc Anh, tất nhiên trừ người rất thông thạo Hán Nôm chuyên về cổ tự học.
Các công trình nghiên cứu đầu tiên của Cadière là về ngôn ngữ học, như ngữ âm học tiếng Việt, phương ngữ Mường, đồng thời nghiên cứu nhiều văn bản về lịch sử, như đã cộng tác với Paul Pelliot để viết về “Nghiên cứu bước đầu về nguồn tư liệu An Nam trong lịch sử An Nam” đăng trên BEFEO năm 1904. Nhưng phải nói ông là người đặt nền móng cho nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, đặc biệt các công trình của ông về tín ngưỡng dân gian ở địa phương nơi ông làm việc là những công trình có giá trị đổi mới, khác với nhiều trước tác của các nhà nghiên cứu trước đó thường nhìn các tín ngưỡng bản địa bằng con mắt kỳ thị. Cadière còn quan tâm đến việc sưu tầm cây cỏ, và đã có một vài nghiên cứu trong lĩnh vực này. Ông đã cung cấp cho Bảo tàng lịch sử tự nhiên Pháp và nhiều cộng tác viên trên thế giới hàng nghìn mẫu cây cỏ tìm thấy ở Việt Nam, chủ yếu là tại Quảng Bình. Đó là một thói quen không thể thiếu đối với bất kỳ nhà dân tộc học nào, cũng như sau này, khi Georges Condominas nghiên cứu người Mnong Gar ở Tây Nguyên, đã có một bộ sưu tập 27 loại cây ăn được, cùng các loại cây có lợi ích kinh tế như thuốc lá, bông, chàm, cây làm thuốc và cây có tác dụng ma thuật, để chứng tỏ rằng kinh tế nương rẫy vẫn có thể duy trì được cuộc sống ổn định.
Dù đã được công nhận là thành viên thông tấn của EFEO từ 1906, rồi đến tháng 10-1918 lại được công nhận là thành viên hưởng trợ cấp (pensionnaire), nhưng ông chỉ giữ danh nghĩa đó có hai năm, vì ông từ chối không ra làm việc tại Hà Nội, mà vẫn tiếp tục giữ nhiệm sở tại Cửa Tùng. Tại đây ông đã xây dựng một nhà thờ, mở một trường học và lập nên một vườn bách thảo nổi tiếng vì những cây có dầu và cây dương xỉ hiếm.
Nhưng có lẽ đóng góp lớn nhất của Cadière đối với nghiên cứu Việt Nam là việc thành lập Hội Đô thành hiếu cổ (Association des Amis du Vieux Hué), mà ông là người khởi xướng. Sau này Cadière đã kể lại rằng: “Một hôm, tôi nói với vài người bạn rằng tôi rất đau lòng khi thấy những dấu vết của quá khứ bị hủy hoại và mất đi, và những người bạn đó, cùng chia sẻ mối quan tâm, đã cùng tôi thành lập Hội Đô thành Hiếu cổ. Đó là lý do đầu tiên đưa đến việc thành lập Hội.” Chính ông đã chủ động tiếp xúc với Léonard Aurousseau, thành viên của EFEO (sẽ trở thành giám đốc từ 1926-1929), lúc đó là thầy dạy vua Duy Tân, và bác sĩ quân y Albert Sallet, nhà nghiên cứu thực vật học, để đi đến quyết định thành lập một tổ chức nhằm mục đích: truyền bá văn hóa Việt Nam và bảo vệ các di tích văn hóa của đất nước này, chủ yếu là ở Huế. Ngày 16 tháng 11-1913, AAVH đã được thành lập tại Huế với 17 thành viên đầu tiên, đến từ các phương trời rất khác nhau: giáo sĩ thừa sai, quan chức thuộc địa, binh sĩ, nhà buôn, quan lại Nam triều. Tất cả đều làm việc tự nguyện không lương, cống hiến sức lực một cách vô tư ngoài những việc chuyên môn mà họ phải làm hàng ngày.
Trong hơn 30 năm trời (từ 1913-1944), AAVH mặc dầu với số người ít ỏi, phương tiện làm việc chưa phải đầy đủ, nhưng đã gánh vác sứ mệnh “truyền đến cho các thế hệ mai sau tầm nhìn chân chính về Việt Nam xưa trước khi nó bị biến mất hẳn”. Tập san của Hội cùng với các tập san của EFEO và Hội Nghiên cứu Đông Dương đã trở thành nguồn tư liệu phong phú nhất để tìm hiểu Việt Nam xưa, mà Cadière đã có lý khi nói rằng: “Những ai muốn nghiên cứu các sự vật ở Huế và cả Việt Nam, đều phải tham khảo Tập san, nếu họ muốn làm một công việc đến nơi đến chốn” (báo cáo năm 1933).
Sau Cách mạng tháng 8, linh mục Cadière vẫn tiếp tục ở lại Quảng Trị. Nhưng khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông cùng 6 linh mục người nước ngoài khác bị chính quyền cách mạng quản thúc tại Vinh từ tháng 1-1947 đến tháng 6-1953. Trong thời gian đó, ông đã tranh thủ lúc bị giam giữ để ghi lại hồi ký của mình. Đó là hơn 1.500 trang viết bên lề của những cuốn sách in một cách thận trọng. Chính trong thời gian bị quản thúc đó mà ông đã được EFEO công nhận là thành viên danh dự năm 1948. Sau khi được trao trả về Huế năm 1953, linh mục Cadière từ chối không hồi hương, vì lúc đó ông đã 84 tuổi. Cụ qua đời tại Huế năm 1955.
Cuộc đời của Léopold Cadière là cuộc đời của một linh mục cống hiến cho giáo dân, vì đó vẫn luôn luôn là mục đích chính của ông. Vì ngoài những công trình khoa học, ông còn chỉ đạo trong nhiều năm tờ tạp chí của các tu sĩ Việt Nam Sacerdos Indosinensis. Tìm hiểu và nghiên cứu về con người và văn hóa của những người dân mà mình có nhiệm vụ chăn dắt, cũng là một trách nhiệm trong công việc mục vụ, mà bất cứ một linh mục nào cũng phải làm. Nhưng với Cadière, ông đẩy cao lên đến mức nghiên cứu khoa học, mà vẫn không mâu thuẫn với công việc thường ngày của một cha xứ.
Cùng thời với Cadière, thiết tưởng cũng nên nhắc đến linh mục François-Marie Savina (1876-1941), thụ phong linh mục tháng 6-1901, một tháng sau thì đến Bắc Kỳ để được đưa lên Lao Cai tại vùng người Hmông. Từ 1906-1924 ông tiếp tục truyền giáo với người Hmông ở Vân Nam. Là một nhà nghiên cứu ngôn ngữ, ông là một trong những người Âu thời đó thông thạo tiếng Hmông, và là tác giả của nhiều cuốn từ điển song ngữ như Từ điển Mèo-Pháp, Sách vỡ lòng Mèo-Pháp, Từ điển Tày-Việt-Pháp, Từ điển Pháp-Mán, Từ điển từ nguyên Pháp-Nùng-Hoa…
Nhưng điều quan trọng là trong công việc mục vụ, ông đã trở thành người hiểu sâu về người Hmông, quan tâm đến những khát vọng của họ, và đã phát hiện ra những căng thẳng trong quan hệ giữa người Hmông với người Thái và người Giấy ở dưới thung lũng, để đi đến dự báo sắp có cuộc nổi dậy của người Hmông ở vùng này từ năm 1914. Những nhận định của ông về quan hệ bóc lột của người Hmông với các thổ ty Thái ở Lao Cai và Hưng Hóa là chính xác, nhưng lúc đầu chưa được nhà chức trách thuộc địa quan tâm. Nhưng mãi bốn năm sau cuộc khởi nghĩa của người Hmông mới bùng nổ, bắt đầu ở Lao Cai tháng 7-1918 và mãi đến tháng 3-1921 mới kết thúc ở Luang Prabang, mà tài liệu thuộc địa thời đó gọi là “cuộc chiến giữa các phù thủy”. Nhưng thực chất đó là một hiện tượng cứu thế (messianique), do một thủ lĩnh Hmông là Pa Chay khởi xướng.
Savina là người đã từng tiếp xúc với Pa Chay và là nhân chứng sáng suốt nhất của hiện tượng này ngay từ đầu. Chính vì vậy mà ông đã được Toàn quyền Đông Dương nhờ viết một báo cáo mật năm 1920 là “Báo cáo chính trị về cuộc nổi dậy của người Mèo ở Bắc Kỳ”. Nhưng đáng tiếc là quan điểm của Savina đối với các hiện tượng tôn giáo và tín ngưỡng của người bản địa còn mang nhiều thành kiến của người Kitô giáo thời bấy giờ. Khi phân tích hiện tượng xưng vua của người Hmông – một hiện tượng cứu thế – thì ông lại đi đến chỗ gần như châm biếm, coi đó là những biểu hiện dị giáo. Ông không phân biệt được những nghi thức và biểu hiện của saman giáo với tín ngưỡng cứu thế, và đánh đổ đồng tất cả những thầy pháp Hmông là “phù thủy” mê tín dị đoan. Thái độ nghiên cứu của Savina vẫn là thái độ của người quan sát bên ngoài để đánh giá văn hóa của người bản địa, chưa hòa nhập được vào thế giới tâm linh của người Hmông, mặc dầu ông rất thông thạo tiếng nói và hiểu biết phong tục tập quán của người bản địa.
Mặc dầu Savina đã để lại những công trình nghiên cứu dân tộc học về người Hmông như Histoire des Miao (1924), nhưng đến nay ít được giới nghiên cứu nhắc đến. Sau này sẽ còn có nhiều vị linh mục khác thuộc thế hệ sau đi vào nghiên cứu về văn hóa Hmông, như linh mục Yves Bertrais và Jean Mottin đã xuất bản những sách song ngữ Hmông-Pháp: Contes et légendes Hmong Blanc (1980), Nouvelle de la solidarité hmong (1984), để cùng với các nhà dân tộc học khác đóng góp vào việc tìm hiểu sâu hơn đời sống và văn hóa Hmông, mà hiện nay giới nhân học Việt Nam còn hiểu biết quá ít.
Là hai người cùng thời, có lẽ cũng được đào tạo gần như nhau, nhưng cách tiếp cận với đối tượng nghiên cứu của mỗi người một khác. Ta thấy ở Léopold Cadière một thái độ dấn thân hiếm có ở các nhà nghiên cứu đương thời, dù là nhà khoa học chuyên nghiệp hay là một giáo sĩ thừa sai làm nghề tay trái. Ngày nay phương pháp nghiên cứu của Cadière không còn xa lạ với các nhà nhân học, mà sau Thế chiến thứ hai mới xuất hiện những đồ đệ của trường phái “quan sát chia sẻ” (observation participative), nhưng với Cadière từ những năm giữa hai cuộc Thế chiến, mà đã có một thái độ nghiên cứu như vậy thì quả thật là hiếm có.
Sau Thế chiến thứ hai, khi Việt Nam đang bước vào cuộc chiến tranh giải phóng, thì đã có những nhà dân tộc học tình nguyện đến sống với các dân tộc Tây Nguyên, như Jean Boulbet đến với người Mạ năm 1946, Georges Condominas đến với người Mnong Gar năm 1948, và đã để lại nhiều công trình nghiên cứu dân tộc học có giá trị. Trong khi Condominas sống với người Mnong suốt một chu kỳ sản xuất trong một năm, thì Boulbet lại đưa cả gia đình đến sống với các dân tộc thiểu số trong nhiều năm trời, cùng chia sẻ những suy nghĩ và thế giới quan của đối tượng được nghiên cứu, mà trước hết là phải thông thạo ngôn ngữ của người dân địa phương.
Trong những người thuộc thế hệ nghiên cứu sau chiến tranh này phải kể đến Jacques Dournes. Ông tham gia MEP sau khi được thụ phong linh mục năm 1945 lúc 24 tuổi, và được bổ nhiệm đến vùng người Srê ở Kala gần Di Linh. Ông đã ở lại Việt Nam 25 năm trên cao nguyên và trong thời gian đó đã hoàn thành 250 công trình, ngoài những luận văn về thần học, ông còn để lại một kho tàng đồ sộ về dân tộc học Đông Nam châu Á về các tộc người chưa có chữ viết. Với ý thức dấn thân vào cuộc sống của cư dân bản địa, từ 1946 đến 1952, ông đã lần theo những con đường mòn của người địa phương, đi từ buôn nọ đến buôn kia bằng đôi chân như những người bản địa, suốt từ Phan Thiết đến Đà Lạt và Kontum. Sau này ông đã cho ra mắt cuốn Đi theo con đường của những người trên Cao Nguyên Việt Nam (Nxb Julliard, Paris, 1955, 251 tr.), một cuốn sách trình bày về lịch sử, con người, những kiến thức về thực vật, các kỹ thuật và lối suy nghĩ của cư dân miền núi. Ông đã đi qua vùng trồng lúa nước của người Srê, vùng làm rẫy của người Raglai, Mạ và Nup. Những đêm thức nghe kể khan bên bếp lửa với tiếng cồng chiêng, cùng uống rượu cần, đã gợi lên cho Dournes những không gian tinh tế, những nghi thức và biểu tượng của phút giây cộng cảm. Ngoài những tìm hiểu về dân tộc học tôn giáo của người dân trong vùng, ông còn nắm bắt những khía cạnh kinh tế như con đường vận chuyển muối, những kho tàng Chăm ở vùng người Raglai, kỹ thuật canh tác, khoa học về chiêm tinh, so sánh về ngôn ngữ… Cho đến nay ký ức của người dân Tây Nguyên về linh mục Dournes vẫn chưa phai mờ. Chính vì cách nhìn của ông khác hẳn những nhà di thực hay các quan cai trị cũ ở vùng này: “Còn về cái mà ta thiếu để có thể thực sự đi vào bên trong, ta có thể bù lại bằng sự nhạy cảm thường trực và một mối thiện cảm vĩnh cửu. Ta chỉ có thể hiểu những người mà ta quí mến, bằng tình yêu thúc đẩy ta trở nên giống như họ, đi vào con người họ.”
Đặc biệt về vấn đề tôn giáo, Jacques Dournes có một cái nhìn bao dung đối với tín ngưỡng của những người mà người Kitô giáo cho là “ngoại đạo” (les paðens). Một câu nói của ông đối với cư dân Tây Nguyên “Chúa yêu những người ngoại đạo” (Dieu aime les paðens), sau này trở thành nhan đề của một cuốn sách ông viết về thần học và dân tộc học.
Trở về Pháp năm 1970, ông làm việc ở Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia CNRS, sau đó lui về miền tây-nam nước Pháp cho đến khi qua đời năm 1993. Ở Tây Nguyên, người dân đã làm cho ông một nhà mồ để tưởng nhớ đến người đã gắn bó cuộc đời với họ.
Đưa ra sự so sánh giữa hai nhà nghiên cứu cùng xuất thân là giáo sĩ thừa sai, nhưng sống cách nhau một nửa thế kỷ, tôi muốn nhấn mạnh đến những điểm tương đồng giữa hai người trong phương pháp nghiên cứu. Quả thật từ nửa sau của thế kỷ XX, về mặt lý luận, ngành nhân học đã có những bước tiến dài, thoát khỏi quan điểm lấy châu Âu làm trung tâm (eurocentrisme). Khái niệm về “văn hóa” cũng được nhìn nhận lại, với những định nghĩa mới của Clifford Geertz, nhất là trong những phân tích về tôn giáo. Mặc dầu bước vào con đường nghiên cứu trong thời gian đầu của sự hình thành bộ môn dân tộc học, nhưng Cadière đã tránh khỏi những lầm lẫn của nhiều tác giả đương thời, chính là vì ông đã biết hòa nhập vào với đối tượng được khảo sát, bằng tình yêu chân thực đối với họ. Tôi không muốn làm mất thì giờ hội thảo bằng những phân tích về quan điểm của Cadière trong những nghiên cứu của ông về tín ngưỡng của người Việt, vì chắc sẽ có nhiều tham luận đề cập đến vấn đề đó. Đấy là cái đáng trân trọng đối với di sản nghiên cứu về Việt Nam mà Cadière đã để lại cho chúng ta, mà hôm nay chúng ta họp nhau lại để tưởng niệm.
Từ tập sách đầu tiên do Đỗ Trinh Huệ dịch thuật (Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản, 1997), mà tôi có vinh dự viết lời giới thiệu, đến nay đã có thêm nhiều bản dịch khác. Nhưng vẫn còn nhiều di cảo của Cadière chưa được dịch thuật và chưa được công bố (kể cả bản tiếng Pháp). Tôi mong rằng chúng ta sẽ tiếp tục khai thác tập Hồi ký mà ông đã viết trong thời gian ở Vinh, cùng với những ghi chép trong “Ký ức của một ông già Việt hóa” (Souvenirs d’un vieil annamisant) đã từng đăng tải trên các tập san Indochine và Sud-Est ở Hà Nội. Đó cũng là cách tưởng niệm thiết thực đối với Cadière, một người đã có nhiều đóng góp cho kho tàng nghiên cứu về Việt Nam.