Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm C

Thứ sáu - 17/10/2025 22:28

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN NĂM C : LC 18,1-8
 
             Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. Người nói : “Trong thành kia có một ông quan tòa. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. Trong thành đó, cũng có một bà góa. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông : ‘Xin ngài minh xét cho tôi khỏi tay đối phương.’ Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng ông ta nghĩ bụng : ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ góa này cứ quấy rầy mãi, thì ta sẽ minh xét cho mụ, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.’”
            Rồi Chúa nói : “Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó ! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm kêu cầu Người sao ? Lẽ nào Người cứ trì hoãn không giúp họ ? Thầy bảo anh em : Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng ?”

 
CẦU NGUYỆN - HÀNH ĐỘNG - TIN TƯỞNG

            Hết thảy chúng ta đều có kinh nghiệm gây bối rối là “cầu xin không được nhậm lời.” Tửng kêu lên với Thiên Chúa  (“kêu van” và “cầu nguyện” đều cùng một chữ trong tiếng Hip-ri), chúng ta bao phen có cảm tưởng Người đã chẳng nghe gì ! Khiến chúng ta đôi khi tự nhủ : Cầu nguyện ích chi, nếu Thiên Chúa không đáp trả ? Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giê-su từng biết rất rõ nỗi khó khăn của việc cầu nguyện : đấy là kinh nghiệm đớn đau về sự “im lặng của Cha trên trời.” Thiên Chúa im lặng hay Người có trả lời mà chúng ta không nghe ? Phần Đức Giê-su, Người nói gì với chúng ta về vấn đề ấy ?

            1- Cầu nguyện đi đôi với hành động.
            Trước tiên xin lưu ý : bà góa khốn khổ nơi dụ ngôn hôm nay là một sinh vật yếu đuối mà trong Kinh Thánh, bên cạnh trẻ mồ côi, là biểu tượng của những kẻ hèn mọn nhất, phải chịu mọi hình thức ngược đãi, bị tước đoạt người bào chữa ngoại trừ Thiên Chúa. Với lòng can đảm tuyệt vọng, phụ nữ này đã dám bước vào những căn phòng lạnh lẽo của pháp đường, vượt qua những rào cản thờ ơ của các viên chức, và xuất hiện trước ông quan tòa hống hách lẫn khó chịu để hét lên lời kêu gọi công lý. Bị lính canh đuổi ra ngoài, bà đã quay lại không chỉ một lần mà hàng chục lần, đã “chiến đấu” với sự gan lì để được “minh xét” (từ này lặp lại 4-5 chỗ). Phẩm chất cơ bản của góa phụ là đức kiên trì không hề lay chuyển, bất chấp sự im lặng của viên thẩm phán, vị cay đắng trong thái độ thờ ơ của ông, thậm chí cả sự nghiệt ngã trong ứng xử thù nghịch che giấu của ông. Cuối cùng phép lạ đã xảy đến. Viên quan tòa ngang ngược, chán ngán sự hiện diện can đảm và kiên quyết này, đã chấp nhận đưa ra phán quyết mong đợi từ lâu. Như vậy, người phụ nữ được Đức Giê-su đem làm gương cho chúng ta đâu có ăn không ngồi rồi ! Đúng hơn, đấy là một chiến binh như thiên hạ nói hiện giờ. Chính việc cầu xin của bà là một cuộc chiến đấu, một sự dấn thân trọn vẹn.
            Qua đó ta thấy cầu nguyện không dễ dàng như việc đọc một công thức ma thuật vốn san bằng mọi cản trở và giải quyết mọi công chuyện. Cầu nguyện là một cuộc phiêu lưu mầu nhiệm mà trong Kinh Thánh thường mang bộ mặt của một cuộc chiến đấu như vừa thấy : hãy nghĩ đến giai thoại nổi tiếng là cuộc vật lộn của Gia-cóp với Thiên Chúa bên bờ sông Giáp-bốc (St 32,23-33) mà chính ngôn sứ Hô-sê diễn giải như một biểu tượng của việc cầu nguyện (12,4-6). Cũng hãy nghĩ đến cụm từ kỳ lạ thánh Phao-lô đã sử dụng trong Thư Rô-ma : "Tôi khuyên nhủ anh em cùng chiến đấu với tôi, bằng cách cầu nguyện" (15,30). Và trong tiếng Hy-lạp, đấy là chữ "agonia", nghĩa là cuộc chiến chung quyết và tối hậu. Do đó, một phẩm chất không thể thiếu của việc cầu nguyện là trung thành ngay cả trong những lúc Thiên Chúa im lặng, giữa thời điểm khô khan và tăm tối.
            Cùng một bài học toát ra từ bài đọc thứ nhất (Xh 17,8-13) nhưng với nét sáng sủa hơn, trong một hình ảnh cụ thể khó quên nổi. Suốt cuộc hành trình dài qua hoang địa vùng Xi-nai, dân Ít-ra-en bị tấn công bởi lắm kẻ thù đáng sợ. Họ phản ứng bằng hai cử chỉ : trên đồi, gần Thiên Chúa, Mô-sê đưa hai tay lên trời… Giô-suê, trong cánh đồng, cùng quân của mình, chiến đấu với vũ khí cầm tay… Cầu nguyện và hành động ! Không chỉ cầu nguyện, nhưng cầu nguyện và dấn thân. Song không chỉ dấn thân mà chẳng cầu nguyện !
            Thành thử việc cầu nguyện đích thực không thể bù đắp cho các hành động của chúng ta. Đừng chờ Thiên Chúa hoàn tất thay cho ta những gì ta đã chẳng có can đảm thực hiện. Thắp một ngọn nến kính thánh An-tôn để được thi đậu cuối niên học, hay như ở Việt Nam hiện thời, trước mùa khảo thí, nhiều sĩ tử đến Văn Miếu-Quốc Tử Giám tại Hà Nội dâng hương hoa lễ vật để xin thi cử trót lọt, đang lúc đã chẳng hề lo “gạo bài”, thế là không lương thiện ! Người ta hiểu Thiên Chúa và các “văn thánh” (nếu có linh thiêng) chẳng nhậm kiểu cầu xin này. Thiên Chúa đâu phải là “kẻ trám lỗ” cho những biếng nhác của chúng ta, nơi trú ẩn cho những cuộc trốn chạy của chúng ta, cũng chẳng là sự khuyến khích cho những hèn nhát của chúng ta !!!

            2- Cầu nguyện đi đôi với tin tưởng.
            Bài học thứ hai về việc cầu nguyện được trình bày thông qua một kỹ thuật lập luận thường mang tên : phương chi, huống hồ (a fortiori) : nếu một quan tòa tồi tệ và bất công như thế, chuyên nhạo báng Thiên Chúa lẫn loài người, nhưng để tránh bị quấy rầy không ngớt, cuối cùng phải nhậm lời góa phụ yếu đuối, cô độc, khốn khổ đang van nài, một “con mụ” vốn chẳng là gì đối với ông cả, thì vị Thẩm phán chí công và trọn hảo, tức Thiên Chúa, lại càng làm như vậy biết bao ; phương chi là Cha anh em -Đức Giê-su nói- Đấng vô cùng nhân hậu, chẳng nhậm lời các kẻ Người đã tuyển chọn, yêu dấu, khi họ kêu cầu Người với lòng tin ? Lẽ nào Người cứ trì hoãn không giúp họ ? Lu-ca từng trình bày cùng một nhận định này -cũng về chủ đề cầu nguyện- trong một câu nói tuyệt đẹp của Đức Giê-su : "Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi là Cha trên trời, sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người." (11,13).
            Như thế, niềm tin vào tình hiền phụ của Thiên Chúa là gốc rễ của việc cầu nguyện và quyết định phong cách cũng như bầu khí của việc này. Trong Nhật ký ngày 06-01-1839, đại triết gia và tín hữu người Đan Mạch, Soren Kierkegaard, từng viết : "Lạy Cha trên trời, khi ý tưởng về Cha nổi lên trong lời cầu nguyện của chúng con, xin Cha làm cho ý tưởng ấy nổi lên không như một con chim hoảng hốt và lạc hướng, chao đảo qua lại, nhưng như một đứa trẻ thức dậy với nụ cười thiên đàng." Đâu phải ngẫu nhiên mà đoạn Kinh Thánh, vốn biểu trưng rõ nét nhất cho mối quan hệ nguyện cầu giữa Thiên Chúa với con người, Thánh vịnh 131, lại dùng hình ảnh một trẻ thơ nép mình lòng mẹ, hồn lặng lẽ an vui.
            “Nhưng khi Con Người đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng ?" Với câu kết lạnh gáy này, Đức Giê-su cho ta thấy rằng nguy cơ chẳng được nhậm lời cầu không đến từ phía Thiên Chúa, nhưng từ phía con người, vốn thiếu lòng tin tưởng. Đây là cách để nói lại với ta rằng trong cuộc sống ta, vừa có vai trò của Thiên Chúa vừa có vai trò của phàm nhân. Và Thiên Chúa tôn trọng vai trò của phàm nhân mà Người đã dựng nên có tự do thật sự. Niềm tôn trọng ấy đối với vai trò bất khả thay thế là vai trò của chúng ta, còn đi đến chỗ dự kiến thất bại của chính việc Đấng Cứu Thế hiện diện, do chúng ta thiếu cầu nguyện, do đức tin ta thiếu chiều sâu. Người có tìm được lòng tin trong con tim chúng ta chăng khi “Người đến để mau chóng minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn” ?
            Lòng tin đó cho phép nhìn thấy việc thực sự nhậm lời ta cầu nguyện. Ngay cả khi bên ngoài, lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được nhậm, Đức Giê-su bảo, vẫn có một sự nhậm lời bên trong, từ phía Thiên Chúa. Chúng ta có tin như thế chăng ? Nếu ai đó từng hỏi cha Maximilien Kolbe, ngày thứ 14 cơn hấp hối của ngài trong hầm ngục giam đói, rằng lời cầu nguyện của ngài có được nhậm chăng… ngài hẳn trả lời là được… vì bên kia cái chết của mình, ngài đã thấy được việc nhậm lời tuyệt diệu của Thiên Chúa trên nước Ba-lan vài thập niên sau (thoát ách độc tài toàn trị). Cũng vậy, lời cầu tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghet-sê-ma-ni “xin cất chén này xa con” (Mc 14,36) bên ngoài đã không được nhậm bằng việc bảo vệ khỏi cái chết đang đến gần. Nhưng nó đã được nhậm qua sự phong nhiêu tuyệt diệu của hy tế Người ! Hàng tỷ linh hồn đã được cứu nhờ chén đắng ấy ! Việc nhậm lời đích thực chính là cuộc Phục sinh.
            Như thế, nếu có lòng tin sâu xa mà Đức Giê-su chờ đợi, chúng ta có thể tin rằng mọi lời cầu nguyện của chúng ta, ngay cả không được nhậm ở mức độ bên ngoài, vẫn nhận được một sự đoái nhậm trong Thiên Chúa, ở một mức độ khác. Lời cầu nguyện ít nhất có kết quả này là biến đổi con tim chúng ta : bị cám dỗ nói : “Xin cho ý con thể hiện…” nó sẽ khiến chúng ta thưa : “Xin cho ý Cha thể hiện !” (x. Lc 22,42).


 

Tác giả bài viết: Lm Phêrô Phan Văn Lợi, TGP Huế


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Theo dòng sự kiện

 

Xem tiếp...

 

Những tin cũ hơn