“Con người đi tìm Thiên Chúa. Khi tạo dựng, Thiên Chúa kêu gọi mọi hữu thể từ hư vô bước vào hiện hữu. “Vì được ban vinh quang và danh dự làm mũ triều thiên”, con người, sau các Thiên thần, có khả năng nhận biết “Danh Chúa lẫy lừng trên khắp địa cầu” (GLCG 2566).
Người Mục tử Nhân lành mang con chiên lạc từ xa về, như được miêu tả, là một công việc gian khổ. Tư thế cúi gập của người mục tử nói lên sự cố gắng hết sức cần thiết. Mô tả có chủ ý này phản ánh sức nặng hy sinh của Chúa Kitô trên thập giá – không chỉ là sức nặng của thanh gỗ mà còn là gánh nặng khôn lường mà Ngài phải gánh lấy vì ơn cứu rỗi nhân loại.
Lễ Hiển Linh là lễ ánh sáng. “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi” (Is 60,1). Với những lời này của tiên tri Isaia, Giáo hội diễn tả nội dung của ngày lễ. Ngài là ánh sáng thật và nhờ Ngài mà chúng ta được tạo thành để trở nên ánh sáng, thật vậy ánh sáng đã đến thế gian. Ngài ban cho chúng ta quyền trở nên con cái Thiên Chúa (x. Ga 1,9,12).
Thánh Luca không nói rằng các thiên thần đã hát. Ngài tuyên bố hết sức trang nghiêm: thiên binh ca ngợi Thiên Chúa và nói: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” (Lc 2:13tt). Nhưng con người luôn biết rằng lời nói của các thiên thần thì khác với lời nói của con người, và trên hết, trong đêm hân hoan loan báo này, qua bài ca đó họ đã ca ngợi vinh quang trên trời của Thiên Chúa. Vì vậy, bài ca thiên thần từ ngay buổi đầu tiên đã được nhìn nhận là như âm nhạc xuất phát từ Thiên Chúa. Thật thế, nó như một lời mời tham gia ca hát với tâm hồn tràn đầy niềm vui vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Ánh sáng là tước hiệu đầu tiên gắn với Ngôi Lời trong tựa ngôn của Tin Mừng Gioan và là một trong những chủ đề chính của toàn bộ cuốn sách Thánh này. Để hiểu rõ hơn ý nghĩa của hình ảnh này được gán cho Đức Giêsu, thật hữu ích khi so sánh phần đầu của tựa ngôn này với những câu đầu tiên trong sách Sáng Thế Ký, sau đó chú ý đến biểu tượng bóng tối và ánh sáng trong toàn bộ Cựu Ước.
Trước niềm hy vọng này của con người, Thiên Chúa đã đáp lại bằng việc sinh ra trong thời gian như một con người nhỏ bé.Khi sống trong Mùa Vọng, xin Chúa cho mỗi người chúng ta giữ niềm hy vọng nơi Thiên Chúa, tin tưởng rằng có một cái gì đó sau cái chết, một thực tại tràn đầy tình yêu Thiên Chúa.
Là một người Công giáo gộc, có nhiều điều tôi chưa bao giờ đặt vấn đề về đức tin Công giáo hay đắn do suy nghĩ khi thực hiện điều gì đó với tư cách là người công giáo. Những thứ như tháng Năm dâng hoa kính Đức Mẹ hay đi Đàng Thánh Giá… tất cả chỉ là một phần văn hóa khi tôi lớn lên. Lời kinh của tôi trước bữa ăn luôn bắt đầu bằng: “Lạy Chúa, xin chúc lành cho chúng con..” và tôi luôn bắt đầu mọi lời kinh nguyện bằng dấu thánh giá.
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo giải thích rằng có “Ba trạng thái của Hội Thánh… trong số các môn đệ, có những kẻ đang tiếp tục cuộc lữ hành trên trần thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống đời này và đang được thanh luyện, và có những kẻ được hiển vinh, đang chiêm ngưỡng trong ánh sáng chan hòa chính Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi" (GLCG 954).
Đã đành, nghĩa trang là nơi chôn cất người chết nhưng đối với những người có niềm tin vào Đức Kitô, thì không gian này còn mang nhiều ý nghĩa riêng biệt. Trong bối cảnh Giáo hội bước vào tháng 11, tháng cầu nguyện đặc biệt cho các tín hữu đã qua đời, thật hợp lý khi dừng lại suy tư một vài nét ý nghĩa của nghĩa trang theo niềm tin Kitô giáo, dựa theo mặc khải Thánh Kinh, Phụng vụ và Giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
Một trong những phúc lành và ơn sủng lớn nhất tuôn chảy từ Thánh Tâm Chúa là lòng thương xót được thể hiện sâu sắc nhất qua Bí tích Giải tội. Bí tích này đôi khi còn được gọi là Bí tích Tha thứ, Hòa giải, Sám hối, cũng như Bí tích Lòng thương xót của Thiên Chúa.