Nguồn gốc Kinh Mân Côi

Thứ tư - 06/10/2021 05:36 902 0

Nguồn gốc Kinh Mân Côi
 
 


Kinh Mân Côi là một trong những lời cầu nguyện được yêu mến nhất của Giáo hội Công giáo. Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen nói, “Kinh Mân Côi là cuốn sách của người mù, nơi các linh hồn nhìn thấy và ở đó diễn ra vở kịch tình yêu vĩ đại nhất mà thế giới từng biết; là cuốn sách đơn giản, đưa họ vào những mầu nhiệm và sự hiểu biết xâu xa hơn là sự giáo dục con người; nó là cuốn sách của người lớn tuổi, người mà nhắm mắt lại với bóng tối của thế giới này, và mở ra với thế giới bên kia. Sức mạnh của tràng hạt không gì có thể diễn tả được ”.

Được bắt đầu bởi Kinh Tin Kính, Kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh, và kết thúc với kinh Lạy Nữ Vương, kinh Mân Côi bao gồm việc đọc thuộc lòng năm lần mười gồm có Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh. Trong khi đọc thuộc lòng, chúng ta suy gẫm về các mầu nhiệm cứu độ trong cuộc đời của Chúa Giêsu và chứng tá trung thành của Mẹ Maria. Qua các mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng, chúng ta nhớ đến sự Nhập Thể của Chúa Giêsu, việc thi hành sứ vụ công khai của Ngài, cuộc khổ nạn và sự Phục Sinh của Ngài. Khi suy gẫm như vậy, chuỗi hạt Mân Côi giúp chúng ta trưởng thành trong việc hiểu biết sâu xa những mầu nhiệm này, kết hợp cuộc sống của chúng ta mật thiết hơn với Chúa và cầu xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin. Chúng ta cũng cầu xin những lời cầu nguyện của Mẹ Maria, gương mẫu của đức tin, Đấng dẫn dắt mọi tín hữu đến với Con của Mẹ.
Nguồn gốc của Kinh Mân Côi rất “sơ sài”. Việc sử dụng “chuỗi hạt cầu nguyện” và việc đọc đi đọc lại những lời cầu nguyện để hỗ trợ cho việc suy gẫm bắt nguồn từ những ngày đầu của Giáo hội và có nguồn gốc ngay cả từ thời Giáo Hội sơ khai. Dấu chứng từ thời Trung cổ rằng các chuỗi hạt đã được sử dụng để giúp một người đếm số lần đọc kinh Lạy Cha hoặc kinh Kính Mừng. Trên thực tế, những chuỗi hạt này được biết đến như là Paternosters, tiếng Latinh có nghĩa là “Lạy Cha”. Ví dụ, vào thế kỷ 12, để giúp những người ít học tham gia vào phụng vụ tốt hơn, việc đọc 150 kinh Lạy Cha được dùng để thay thế cho 150 Thánh Vinh, và được biết đến như là “Kinh Nhật Tụng của người nghèo”.
 
Cấu trúc của chuỗi Mân Côi phát triển dần dần giữa thế kỷ 12 và 15. Cuối cùng 50 kinh Kính Mừng (hoặc nhiều hơn) được đọc và liên kết với các câu Thánh vịnh hoặc các cụm từ khác gợi lên “niềm vui của Đức Maria,” tức là những cảnh trong cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Năm 1409, thánh Đa Minh Prussia, một tu sĩ người Carthusia, đã phổ biến thông lệ đặt 50 câu nói về cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria cùng với 50 kinh Kính Mừng. Trong giai đoạn này, hình thức cầu nguyện này được gọi là rosarium (“vườn hoa hồng”), thực ra là một thuật ngữ phổ biến được sử dụng để chỉ một bộ sưu tập các tài liệu tương tự, chẳng hạn như một tuyển tập các câu chuyện về cùng một chủ đề hoặc đề tài.  Sau cùng, “đau khổ của Đức Maria” và “niềm vui trên trời” đã được phân biệt, nâng số lượng kinh Kính Mừng lên 150. Cuối cùng, 150 kinh Kính Mừng được kết hợp với 150 kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng theo sau mỗi kinh Lạy Cha.

Vào đầu thế kỷ 15, Henry Kalkar (mất năm 1408), một người Carthusian khác, đã chia 150 kinh Kính Mừng thành các nhóm 10, với mỗi nhóm được đánh dấu bằng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ 16, cấu trúc của Chuỗi Năm Mươi dựa trên ba bộ mầu nhiệm- Mầu nhiệm Vui (Truyền tin, Thăm viếng, Chúa giáng sinh, Dâng và Tìm thấy trong đền thờ), Mầu nhiệm Thương (Đau khổ trong vườn dầu, Đánh đòn, Đội mão gai, vác Thập tự giá và Chết) và Mầu nhiệm Mừng (Chúa Phục sinh, Thăng thiên, Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Lên trời của Đức Maria và Đăng quang). Vào năm 2002, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã thiết lập các Mầu nhiệm Sáng: Phép Rửa tại sông Giođan, Tiệc cưới Cana, Rao giảng Nước Thiên Chúa, Sự Biến hình và Lập Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra, sau khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917, lời cầu nguyện mà Đức Maria dạy cho trẻ em thường được thêm vào cuối mỗi chục: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa địa ngục. Hãy dẫn tất cả các linh hồn lên thiên đàng, đặc biệt là những người đang cần đến lòng thương xót của Ngài”.

Truyền thống cho rằng thánh Đa Minh (mất năm 1221) đã đặt ra chuỗi Mân Côi như chúng ta biết. Được thúc đẩy bởi một giấc mơ về Đức Mẹ, ông đã rao giảng việc sử dụng chuỗi hạt Mân Côi trong công việc truyền giáo của mình giữa những người Albigenses một nhóm những người dị giáo cuồng tín. Người Albigenses, được đặt tên theo thị trấn Albi ở miền nam nước Pháp nơi họ sinh sống, họ tin rằng mọi thứ vật chất đều xấu xa và mọi thứ tinh thần đều tốt đẹp. Vì lý do này, họ phủ nhận sự Nhập Thể của Chúa; đối với họ, Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật trở thành người thật và chấp nhận bản tính con người là điều không thể tưởng tượng được. Theo lời dạy này, linh hồn của mỗi người bị giam cầm trong thể xác xấu xa. Vì vậy, họ kiêng kị tình yêu trong hôn nhân, bởi vì không người nào nên giam cầm linh hồn người khác trong một thân xác. Hành động tôn giáo lớn nhất của họ được gọi là “endura”, một hành động tự sát để giải thoát linh hồn khỏi thể xác. Họ cũng chiến đấu chống lại bất kỳ quyền lực nào đại diện cho một quốc gia trên thế giới này, sát hại các chức sắc hoàng gia và Giáo hội. Giáo hội đã lên án những kẻ dị giáo này, và thánh Đa Minh đã cố gắng để hoán cải họ qua những lời rao giảng và tình yêu chân thật của Kitô giáo. Thật không may, nhà cầm quyền quốc gia đã không rộng lượng. (chỉ như là ngoài lề, một chương trình du lịch đã truyền hình một chương trình về miền nam nước Pháp, và đến thăm thị trấn Albi, lưu ý rằng những người này đã bị "bách hại bởi Giáo Hội"; người kể chuyện đã không thông báo rằng những người này là những kẻ dị giáo tự sát mà những lời dạy của họ đã gây nguy hiểm cho linh hồn của các tín hữu.) Tuy nhiên, Thánh Đa Minh đã sử dụng chuỗi Mân Côi như một công cụ hữu ích để hoán cải những người Albigensian.

Một số học giả loại trừ vai trò thực sự của Thánh Đa Minh trong việc hình thành chuỗi Mân Côi vì các bản tường thuật sớm nhất về cuộc đời của ngài không đề cập đến nó, các hiến pháp của Dòng Ða Minh không liên kết ngài với việc thành lập chuỗi Mân Côi, và các bức tranh cùng thời của Thánh Ðaminh không bao gồm chuỗi Mân Côi như một biểu tượng để xác định vị thánh. Năm 1922, Đaminh Louis Gougaud tuyên bố, “ Những yếu tố khác nhau tạo nên lòng sùng kính Công giáo thường được gọi là chuỗi hạt Mân Côi là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài và dần dần bắt đầu trước thời của Thánh Đa Minh, sau đó vẫn không có tài liệu nào nói đền sự hình thành chuỗi Mân Côi của ngài, và chuỗi Mân Côi được hình thành trọn vẹn vài thế kỷ sau khi Thánh nhân qua đời. " Tuy nhiên, các học giả khác tranh luận rằng Thánh Đa Minh không “phát minh” ra chuỗi Mân Côi cho bằng ngài phổ biến việc lần chuỗi Mân Côi để hoán cải những người tội lỗi và những người đã xa lạc Đức Tin. Hơn nữa, ít nhất hơn mười hai giáo hoàng đã đề cập đến mối liên hệ của Thánh Đa Minh với chuỗi Mân Côi trong các tuyên bố khác nhau của đời Giáo hoàng, coi vai trò của ngài ít nhất là khơi “Lòng đạo đức”. Lần đầu tiên vần đề này được đề cập đến bởi Giáo hoàng Alexander VI vào năm 1495.
                                                                  

FR. WILLIAM SAUNDERS

https://catholicexchange.com/origins-of-the-holy-rosary

 
 

Tác giả bài viết: Maria Nguyễn chuyển ngữ

 Tags: giáo lý

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Tuyển tập Mục Đồng
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây