THÁCH ĐỐ VỀ ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI THÁNH HIẾN
Dẫn nhập
Khi nói về Đức tin, không ít người Kitô hữu tự hào rằng mình thuộc thành phần ưu tú trong Giáo hội “đạo dòng, đạo gốc”. Họ tự tin với niềm tin được truyền thụ từ gia đình, có thể rao giảng hùng hồn về niềm tin ấy cho người khác. Cũng trong tư tưởng ấy, người ta nghĩ rằng người thánh hiến trải qua thời gian đào luyện và luyện tập tu đức lâu dài thì chuyện khủng hoảng hay chao đảo niềm tin là điều không xảy ra! Thế nhưng thực tế, chỉ cần trải qua một vài thử thách trong đời, sẽ dễ dàng nhận diện niềm tin của mình đến đâu, đạt ở ngưỡng nào, ngay cả đối với những người sống đời Thánh hiến. Liệu rằng khi đối diện với hoàn cảnh không như mong muốn và thực trạng như thế, thái độ của con người ra sao: cậy trông, phó thác hay chao đảo, khủng hoảng đến bế tắc, tuyệt vọng.
Trong hành trình tiến về Nước Trời, con người đối diện với biết bao thứ khủng hoảng: khủng hoảng do nền kinh tế toàn cầu, khủng hoảng về văn hóa – luân lý, khủng hoảng về cơ cấu và định chế, khủng hoảng về con người, khủng hoảng về sự đa dạng, khủng hoảng về căn tính... Con người, là con đường đầu tiên mà Giáo hội phải đi qua khi làm tròn sứ mệnh của mình...[1] nên Giáo hội cùng chia sẻ, thao thức, đồng hành, chung chia vui buồn của kiếp nhân sinh với con người, nhất là người tu sĩ trẻ. Chẳng thế mà khủng hoảng Đức tin của người Thánh hiến cũng có thể là khủng hoảng của Giáo hội, những thách đố trong đời sống Đức tin mà người Thánh hiến đang đối diện cũng là những khó khăn mà Giáo hội đang ưu tư, trăn trở. Giáo hội vẫn ý thức rằng họ chính là nòng cốt để sống và loan truyền niềm tin, giúp cho con người trong thế giới vô thần duy vật chất đang đối diện với biết bao thách đố tác động đến ơn gọi của mình, ngày càng củng cố Đức tin vốn đã bị mai một và khủng hoảng trầm trọng như thời đại chúng ta đang sống. Đặc biệt, Giáo hội Việt Nam trong năm 2021 với chủ đề “ Đồng hành với người trẻ trong đời sống gia đình”, thì việc đồng hành với người trẻ, nhất là các tu sĩ trẻ trong tương quan với gia đình Giáo hội, gia đình Tu hội lại là một dịp để hiểu sứ vụ của Hội thánh trong tương quan với các thế hệ trẻ và giúp tái hiện lại cuộc đối thoại của Đức Giêsu với người trẻ hôm nay như mô hình hai môn đệ trên hành trình Emau (Lc. 24, 13-35), mà Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 15 đã nhìn nhận là kiểu mẫu giúp người trẻ bài học về sự trưởng thành Đức tin.
Mọi thành phần trong Giáo hội ưu tư gì, trăn trở gì, thao thức gì? Giáo hội dùng phương cách nào để giúp người Kitô hữu, đặc biệt là người tu sĩ trẻ tìm lại niềm tin nguyên tuyền vốn đã nhận được khi lãnh Bí tích Rửa tội. Chắc hẳn, chỉ với những suy nghĩ chủ quan và giới hạn trong suy tư, người viết không dám đưa ra hết những thách đố và những phương thế để giúp người tu sĩ sống Đức tin cách sung mãn, chỉ dựa vào một số cảm nghiệm cùng với hướng dẫn của huấn ngôn Giáo hội để nêu ra một vài thách đố khơi gợi suy tư nhỏ bé này.
I. Nhận diện một vài thách đố của người thánh hiến trong đời sống Đức tin.
Đức tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho con người, là “cửa mở” đưa con người vào đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, đồng thời cũng là bảo chứng mang lại ơn cứu độ đời đời. Đọc qua những trang Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhiều lần đã phải ngạc nhiên trước sự cứng tin của con người. “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Suy cho cùng, đây không đơn giản là một câu chất vấn, mà còn là lời chia sẻ mối băn khoăn, lo nghĩ cho lẽ tồn vong của lòng tin và cũng là vận mạng sinh tử của người tin. Hành trình Đức tin của thời nào và bất cứ người nào, hoàn cảnh nào, môi trường nào cũng đầy thách đố gian nan. Và hơn bao giờ hết, chúng ta đang hít thở bầu không khí mà chủ nghĩa tương đối và duy thế tục bành trướng, bao trùm mọi lãnh vực đời sống nhân loại, gây phương hại nghiêm trọng cho Đức tin, khiến nhiều người đánh mất hoặc không sống những đòi hỏi của Đức tin như lời Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “Hiện nay tại nhiều nơi, Đức tin có nguy cơ bị dập tắt, như một ngọn lửa đang tàn vì những khủng hoảng Đức tin, nhất là mất dần ý thức tôn giáo trong đời sống”.[2]
Trước một thực tại thế giới được đánh dấu bằng một loạt các cơn khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực như văn hóa, kinh tế, gia đình và luân lý, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã khẳng định: nguyên nhân sâu xa của các cơn khủng hoảng này là do khủng hoảng Đức tin. Ngài đã viết: “…Chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo hội ngày nay”. Theo Đức Thánh cha, hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa. Nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục. “Sự chối bỏ Thiên Chúa đưa tới sự sa đọa con người và nhân loại”[3]. Chắc hẳn nhiều thách đố ở nhiều góc độ đang là mối trở ngại lớn cho người Thánh hiến, ở đây chỉ xin đề cập đến một vài thách đố có liên quan ít nhiều đến ơn gọi của người Thánh hiến.
1. Thách đố của ý thức hệ
Chủ nghĩa tương đối chủ trương mọi thứ đều tương đối, nghĩa là chẳng có gì tuyệt đối cũng chẳng có chi toàn năng. Chủ trương này khiến cho con người hôm nay không còn muốn chấp nhận các chân lý tuyệt đối nữa, không quy chiếu và sống theo chuẩn mực luân lý hay giá trị đạo đức khách quan nào nữa. Đây là sai lầm căn bản và là một trong những quan tâm lớn lao nhất của Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI mà ngài cho là sự lan tràn của “Thuyết Tương Đối”. Trong bài giảng khai mạc Mật Viện Hồng Y để bầu tân Giáo Hoàng vào năm 2005, ngài đã gọi đe dọa này là “Nền độc tài của chủ thuyết tương đối” (Dictatorship of Relativism). Thực vậy, nhiều người Công giáo đang mất niềm tin vì bị ảnh hưởng bởi “Thuyết tương đối”. “Thuyết tương đối” phủ nhận “một chân lý tuyệt đối”, vì theo thuyết này thì không có gì là tuyệt đối cả. “Thuyết tương đối” còn ảnh hưởng nặng nề hơn nữa đối với các vấn đề luân lý, vì cho rằng không có luân lý tuyệt đối, nên con người không còn tiêu chuẩn nào để huấn luyện lương tâm. Vì lương tâm không có tiêu chuẩn nên bị méo mó. Và từ đó, người ta có thể muốn làm gì thì làm mà không còn bị lương tâm khiển trách nữa.
Với sự khuếch trương và bành trướng của chủ thuyết này, con người bắt đầu đặt lại vấn đề và nghi ngờ đối với chân lý, đó cũng là thách đố Đức tin của con người. Ý thức bản chất của chủ thuyết này với những tác động tai hại của nó, nhiều huấn từ của các vị mục tử Giáo hội đã không ngừng lên tiếng như Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phalô II trong thông điệp Đức tin và Lý trí đã viết: “ trong mọi hình thức của thuyết bất khả tri và thuyết tương đối hiện có trong tư tưởng thời đại, sự đa dạng chính đáng của các lập trường đã nhường bước cho một sự đa dạng bất phân biệt, xây dựng trên sự khẳng định rằng tất cả các lập trường đều có giá trị ngang nhau: đó chính là một trong những triệu chứng phổ biến nhất của sự nghi ngờ đối với chân lý mà người ta có thể nhận thấy trong bối cảnh hiện nay” (số 5).
Trong bầu khí của chủ thuyết tương đối, thì thách đố đối với Đức tin của người tu sĩ là một thách đố không hề đơn giản, đi tu cũng tương đối, khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, đời sống cộng đoàn cũng tương đối. Nếu chỉ có tương đối thì Thiên Chúa đã bị loại ra khỏi thế giới, con người không thể nào hướng về Đấng Siêu Việt là Thiên Chúa toàn năng. Xã hội một khi đã loại trừ Thiên Chúa, thì con người sẽ tạo ra những Thiên Chúa khác như là những “ngẫu tượng” đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của họ, con người ra sức chạy theo sự hấp dẫn của tiền bạc. Của cải và quyền lực thi nhau lên ngôi. Đồng tiền trở thành phép thử và quyền lực trở thành cán công công lý bất chính. Thang giá trị đạo đức bị đảo lộn. Trong xã hội này, người tu sĩ liệu có đánh mất niềm tin và rời xa Giáo hội chăng? “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.”(Mt 6, 24), là một lời chất vấn vang vọng mãi trong lòng mình.
- Tục hóa và chủ nghĩa duy thế tục
-
Xã hội chúng ta đang sống bị tục hóa do sự tôn thờ vật chất và chủ nghĩa hưởng thụ. Con người đang tìm cách giải thiêng hoặc cổ xúy cho tinh thần thế tục. Hiện nay, thành quả khoa học phát triển trong nhiều lãnh vực: y khoa, công nghệ thông tin, thiên văn học…, con người tự tin vào tiềm năng sáng tạo của mình. Người ta luôn muốn đưa Đức tin và Thiên Chúa thí nghiệm, người ta chuộng những gì kết quả trông thấy ngay trước mắt hay có thể chứng minh, kiểm nghiệm được còn những thực tại thuộc phạm vi siêu nhiên, vô hình như Đức tin và Thiên Chúa thì họ không mấy bận tâm hay cho rằng không có gì thiết thực cho cuộc sống.
Sự độc tài của chủ nghĩa tương đối có tác động tai hại trên mọi lãnh vực của đời sống con người và xã hội như nhận định của Đức giáo hoàng Phanxicô: “Tiến trình tục hoá có khuynh hướng giản lược đức tin và Hội Thánh vào lãnh vực cá nhân và riêng tư. Hơn nữa, bằng việc phủ nhận cái siêu việt, nó làm cho đạo đức ngày càng xuống cấp, ý thức của cá nhân và tập thể về tội lỗi suy yếu dần, và chủ nghĩa tương đối ngày càng gia tăng. Tình trạng này dẫn đến một sự mất phương hướng chung, đặc biệt ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên vốn là tuổi rất dễ bị tổn thương do sự thay đổi”[4]. Không thể phủ nhận rằng làn sóng tục hóa đang lan rộng, len lỏi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống con người. Con người chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, rời bỏ niềm tin và thôi thực hành tôn giáo. Mỗi cá nhân tự đặt cho mình quyền quyết định tốt, xấu, đúng, sai và tự đưa ra lề luật hoặc quy tắc ứng xử vì cho là mình đúng nhất.
2. Thách đố của đời sống cộng đoàn
Ngoài xã hội tục hóa với đầy dẫy những đòi hỏi và ngụy luận của nó, người tu sĩ còn phải đối diện với thách đố không nhỏ có ảnh hướng đến Đức tin nơi cộng đoàn tu trì của mình, trong đó cộng đoàn như là “gia đình đích thực” mà mình đem hết khả năng để dấn thân phục vụ và cũng được cộng đoàn đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho đời sống sinh hoạt của người tu sĩ.
Quả thật, Hiến chương Hội dòng Mến Thánh Giá nêu rõ ý nghĩa của đời sống cộng đoàn “Cộng đoàn Mến Thánh Giá là một gia đình đích thực bắt nguồn từ chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được quy tụ nhân danh Chúa Giêsu Kitô Tử Nạn và Phục Sinh” [5]. Liệu cộng đoàn tu trì có phải là nơi mà mọi người dấn thân vào cảm được đây là gia đình đích thực chăng? Có thể có nhưng cũng có thể không, câu trả lời tùy thuộc cách sống tình huynh đệ cộng đoàn của mỗi người.
Một số người trước khi bước vào đời tu thường hay có cái nhìn rất đẹp về đời tu: đây là một nơi bình an và thánh thiện với những con người có đầy đủ những phẩm chất tốt, đang ngày ngày luyện tập để vươn đến sự thánh thiện tuyệt hảo. Với họ đây quả là Thiên Đường! Nhưng oái oăm thay! Ẩn sau cảm giác thánh thiện vẫn là những thách đố nhiêu khê về tình huynh đệ cộng đoàn. Cảm giác hạnh phúc và vui tươi của thời gian khởi đầu, đơn giản, nhẹ nhàng, nay đã biến chuyển thành nhiều chuyện không như họ tưởng.Việc đón nhận nhau trong tình huynh đệ, trân trọng những năng khiếu riêng của mỗi người vẫn là một điều đáng để suy nghĩ và bàn thảo. Với nhiệt huyết hăng say của buổi ban đầu theo Chúa, có thể đã có một hình ảnh rất lý tưởng về nhóm, cộng đoàn… Thế nhưng cùng với thời gian, sau nhiều va chạm với cuộc sống thực tế người tu sĩ thấy cuộc sống trở nên phức tạp và khó khăn hơn, bởi sự khác biệt giữa con người với nhau: khác từ cách suy nghĩ, quan điểm, tính tình, tâm trạng, khác từ phong cách, sở thích, phương pháp làm việc…, ta cảm thấy cuộc sống tu trì đem lại sự cô đơn, thất vọng, nhất là khi ta cảm thấy thiếu thương yêu thật sự trong cộng đoàn, một cuộc sống mang nhiều thành kiến, hiềm khích, phán đoán vội vã, những cách đối xử thiên vị, cạn kiệt tình huynh đệ. Rốt cuộc ai cũng muốn giữ vững “pháo đài lập trường” đôi khi thật cứng nhắc của mình, luôn cho rằng mình đúng, không chịu nhường nhịn, thiếu sự tôn trọng về sự khác biệt của nhau. Dần dần xuất hiện những mối bất hòa và xung đột, bầu khí cộng đoàn mất đi “ hòa khí”, đời sống chung trở nên ngột ngạt, căng thẳng, khó chịu, mặt nặng mặt nhẹ, bằng mặt chứ không bằng lòng. Có không ít người tu sĩ gặp điều buồn phiền, bất an, không còn tín nhiệm và muốn chia sẻ với ai, cảm thấy chới với, mất phương hướng và loay hoay mãi trong bế tắc. Họ ra sức kêu gào, tìm kiếm mà chẳng thấy Chúa đâu, Ngài vẫn lặng thinh. Trong nỗi tuyệt vọng và không biết cậy dựa vào ai, thế là Đức tin chao đảo, nghi ngờ không biết Chúa có thật hay không? Nếu có tại sao Chúa lại để những điều trái khuấy này xảy ra? Chính những điều đó đã làm cho họ cảm thấy chán nản, khủng hoảng, căng thẳng và ngột ngạt trong đời tu. Họ đành bỏ ơn gọi cũng chỉ vì không thể chấp nhận cuộc sống tu trì với những vết đen như thế. Theo nghiên cứu của cha José Rodriguez Caballo diễn ra ở Rôma ngày 29/10/2013 và nhật báo Osservatore Romano đã đăng trích một số đoạn trong bài phát biểu của ngài, mỗi năm có hơn 3.000 tu sĩ nam nữ rời bỏ đời sống Thánh hiến. Con số bình quân này đã được xác lập từ con số người rời bỏ từ năm 2008 đến 2012.[6]
Với người tu sĩ trẻ, đây là thời gian họ bắt đầu cống hiến hết khả năng, sức lực cho cộng đoàn, cho công tác giáo dục, y tế, xã hội, cho sứ vụ. Họ như là những thành phần năng động tạo nên nhịp sinh hoạt và sức sống của Hội dòng. Thế nhưng, đây cũng là thời gian người tu sĩ trẻ cảm thấy mệt mỏi vì thực tế cuộc sống không được như mình mong muốn, họ chán nản với nếp sinh hoạt đơn điệu của nhà tu, công tác mục vụ đầy áp lực, những va chạm với anh chị em trong cộng đoàn. Bên cạnh đó, không ít người dần dần tìm sự bảo đảm cho tương lai của mình qua việc cố gắng học hỏi, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, nếu thành công thì vui mà thất bại thì là một sự “bất ổn”. Người tu sĩ trẻ ngày nay cũng đang phải đối diện với một thời đại của tự do, dân chủ, bị tấn bởi nhiều loại virus “ độc hại” của chủ nghĩa hưởng thụ, tiện nghi, đòi hỏi cho được theo đúng ý mình. Ngoài ra, với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ, họ được tiếp cận và lãnh hội nhiều kiến thức ưu thế và tinh tế, có thể sâu rộng hơn với thế hệ cha ông nhưng nền tảng đạo đức, các giá trị truyền thống, lễ nghĩa gia phong thì không chắc chắn, vững vàng cho bằng. Mặc khác, tâm thức, nhân sinh quan của mỗi thế hệ cũng có khoảng cách khá xa nhau khiến người tu sĩ trẻ khó chấp nhận những lời chỉ dạy của Bề trên hoặc các vị hữu trách. Họ ảo tưởng với những gì mình đạt được mà không cần đến những lời chỉ bảo, hướng dẫn của những thế hệ đi trước, cho là lỗi thời, nhưng ẩn sâu bên trong là lỗ hổng của sự kém cỏi về năng lực, kinh nghiệm và kỹ năng. Một điều khiến nhiều nhà đào tạo cảm thấy ái ngại và gặp nhiều khó khăn là những đối tượng này còn trong thời gian được huấn luyện, họ không hài lòng với những gì nhà đào tạo đưa ra, xét thấy không thể phản đối được, họ chấp nhận nín thở qua cầu, chờ đến khi có cơ hội thuận tiện hoặc bảo đảm an toàn họ lại sẵn sàng bùng lên chống đối.
Thách đố của việc thiếu niềm vui và niềm tin nơi cộng đoàn người thánh hiến đang sinh hoạt và phục vụ. Có người tìm gặp hạnh phúc và niềm vui nhưng cũng có người cảm thấy buồn chán và xa lạ, lý do sâu xa là thiếu hiểu biết và thông cảm cho nhau nên không đối thoại được với nhau. Họ khó chấp nhận cung cách ứng xử của những tu sĩ với nhau như một người ban ơn, như một người chuyên áp đặt hoặc có những hành xử quá ư con người! Hay ngược lại cũng không thể bằng lòng với thái độ bất kính, luồn cúi, nịnh hót…Sức sống của Giáo hội, sự thăng tiến của Tu hội đòi hỏi một sức sống nội tại phát xuất từ những tu sĩ có con tim, khuôn mặt, tâm hồn thật vui tươi và bình an, niềm vui này được diễn tả trên khuôn mặt của tất cả mọi thành viên đang sống niềm vui của tình huynh đệ. Thánh Bộ Đời sống thánh hiến và Tu đoàn Tông đồ trong văn kiện Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, số 28 đã không ngừng mời gọi “Tình huynh đệ không có niềm vui là tình huynh đệ đang chết đi; sớm muộn, các thành viên sẽ bị cám dỗ đi tìm ở bất cứ nơi đâu khác điều mà họ không tìm thấy trong cộng đoàn của mình. Một tình huynh đệ đầy niềm vui là ân huệ từ trên ban cho anh em chị em, là những người biết cầu xin và biết chấp nhận nhau, phó thác cho đời sống huynh đệ, tin tưởng vào hành động của Chúa Thánh Linh… Chứng từ niềm vui đó là sự lôi cuốn mãnh liệt vào đời sống tu trì, là nguồn phát sinh những ơn gọi mới, và khích lệ bền đỗ”.
Ngoài ra, thách đố của việc xung đột quyền bính, xung đột quyền lợi cá nhân và tập thể cũng là một trong những điều dẫn đến khủng hoảng Đức tin của các ơn gọi Thánh hiến, giảm sút ơn gọi. Xung đột vì các tu sĩ trẻ còn thiếu ý thức về trách nhiệm, về ứng xử, về công bằng, về sự thật và cũng không thiếu những xung đột vì quyền bính được thực thi một cách tự do, thiên vị, lạm quyền, lợi ích nhóm. Với thách đố này, người tu sĩ trẻ cần được nhắn nhủ : Để sống cho người khác bao giờ tôi cũng phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm, “không tìm lợi ích cho riêng mình” (x. Pl 2,4). Người tu sĩ trẻ cần tập nhạy cảm trước nhu cầu của anh chị em trong Dòng và hồn nhiên phục vụ họ. Hơn nữa, còn phải tập chịu đựng, chấp nhận và đón nhận từng người trong cộng đoàn, với những ưu khuyết điểm riêng. Có thể nói như thánh Phaolô, “những gì là chân thật , cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8). Mọi giá trị nhân bản thực sự đều đáng được người tu sĩ trẻ học hỏi và thực hành. Tiến bộ trong đời tu có thể được đo bằng khả năng sống bình an hòa thuận và làm việc được với các tu sĩ khác, bất chấp những khác biệt về tính tình, tuổi tác, trình độ hay quan điểm. Người tu sĩ trẻ được huấn luyện sao cho càng lúc càng gắn bó hơn với Đặc sủng của Dòng với vai trò của ngôn sứ Thiên Chúa. Và người có trách nhiệm cần biết thực thi quyền bính mình được trao phó trong tình bác ái, yêu thương và xây dựng cộng đoàn. Nếu không lưu tâm đến sự trưởng thành và nhân vị của mỗi chị em thì sinh hoạt cộng đoàn chỉ là cơ chế, thủ tục, luật lệ cứng nhắc, khiến cho nhân cách người tu sĩ trở nên ấu trĩ, sợ sệt...
Thật vậy, mục tiêu rao giảng Tin Mừng tình yêu của Đức Kitô, Tin Mừng tự do của con cái Chúa, không thể được thể hiện bằng một phương thức có tính cách áp đặt, mà bằng một sự chinh phục tận con tim. Con người chịu dầm mình trong nền kinh tế thị trường với bầu khí hấp dẫn của biết bao lời mời mọc, họ như là những người tiêu dùng đang phân định để chọn sản phẩm nào phù hợp với túi tiền và nhu cầu của mình mà vẫn “ miễn nhiễm” với những hệ lụy không nguyên tuyền của nó. Một điều không kém phần quan trọng là những vị lãnh đạo, các vị hữu trách cần khám phá những nét đẹp nhân bản của Kitô Giáo cùng với việc “thâm cảm” với đối tượng mình được trao phó hướng dẫn, để có thể sòng phẳng chinh phục được con người trong bầu khí thị trường, chứ không phải dùng uy thế, quyền lực để đe dọa hoặc ép buộc người ta phải tiêu dùng sản phẩm của mình. Phải can đảm và chấp nhận một sự mất mát, thậm chí là thiệt thòi và tổn thương về phần mình mới có thể khám phá ra được nét đẹp ấy, bằng không chẳng có kết quả nào tốt hơn hết. Mỗi con người dù bé nhỏ, tầm thường, không có địa vị hay chức vụ, không danh tiếng, danh phận thì cũng là nhân vị huyền nhiệm trước mặt Thiên Chúa và cần được tôn trọng và đối xử sòng phẳng như nhau.
3. Thách đố căn tính đời tu qua các lời khuyên Phúc Âm.
Cuộc sống chúng ta luôn đầy những thách đố và khủng hoảng. Khó khăn và thách đố ở chỗ mỗi người có thói quen nhìn khuôn mặt mình qua lăng kính hạn hẹp của bản thân: thói quen của tôi, sở thích của tôi, quan niệm của tôi, giờ giấc của tôi, lối sống của tôi và ngay cả những kiến thức tôi tiếp thu được… Tất cả những “cái tôi” ấy diễn tả những cái riêng tư và được bao bọc cách cẩn thận khó có ai có thể lọt vào. Giữa một thế giới tục hóa, thì việc đề cao tiền bạc, vật chất, sự thèm muốn khoái lạc cùng với xu hướng chủ nghĩa cá nhân là một thách đố khá gay gắt với những người Thánh hiến khi sống căn tính của đời sống tu qua 3 lời khuyên Phúc Âm.
a. Lời khấn khó nghèo
Thật ra, chẳng ai dại gì muốn sống nghèo túng, nhất là trong xã hội đề cao tiền bạc, ai cũng tranh thủ tìm mọi cách để kiếm được nhiều tiền bất chấp cách kiếm tiền đó có chân chính hay không? Con người có thể dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích. Người tu sĩ cũng không khỏi bị lôi cuốn vào những ước muốn, lắm lúc bị đồng tiền mê hoặc, thích hưởng thụ những tiện nghi vật chất, đua đòi theo model, thích cái gì thì tìm đủ mọi cách và lý do giải thích cho nhu cầu của mình mà không phân biệt “cái cần với cái ước muốn”. Dẫu biết rằng với thời đại tân tiến, có những công tác đòi hỏi trang bị cho mình những thiết bị máy móc hiện đại như laptop, điện thoại thông minh giúp cho công tác phục vụ được tốt hơn. Thế nhưng, thử hỏi có mấy ai trong chúng ta sử dụng những phương tiện này theo đúng mục đích, phục vụ công ích. Khi phương tiện đã đầy đủ, khả năng chiếm hữu và sử dụng cách tự do, tốn nhiều thời gian vô bổ trong những công việc không chính đáng. Nhu cầu học hỏi, tra cứu, cập nhật thông tin ngày càng nhiều và thời gian dành cho Chúa, cho cộng đoàn, cho việc chung, cho sứ vụ, cho công tác bái ái, cho bổn phận cá nhân ngày một ít dần. Người tu sĩ bắt đầu giàu sang của cải vật chất, ước muốn chiếm hữu và nhu cầu thụ hưởng vật chất lên cao thì tinh thần khổ chế lại xuống dốc cách trầm trọng. Thế là “vạn lý trường thành” của tiện nghi vật chất được bọc kiên cố, lời khấn khó nghèo của người tu sĩ bị bóp nghẹt trong bức tường này hoặc có khi tuân giữ một cách bất đắc dĩ chứ không bình an và triển nở.
b. Lời khấn khiết tịnh
Như đã chia sẻ ở trên trong phần đời sống cộng đoàn, một vấn đề tuy không lớn lắm nhưng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến ơn gọi của nhiều người và những thách đố trong lời khấn khiết tịnh cũng dẫn đến khủng hoảng ơn gọi, đó là cộng đoàn thiếu vắng sự tin tưởng, tôn trọng, yêu thương nhau... Một số tu sĩ phải giã từ đời tu vì không tìm thấy được cộng đoàn tu trì là “nhà mình” mà chỉ là “nhà trọ”, một nơi cần nghỉ ngơi sau một ngày làm việc chứ không phải là nơi để tình hiệp thông được nối kết, tình huynh đệ được sẻ chia và cũng không là nơi Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Khi cuộc sống tu trì gặp khủng hoảng, căng thẳng, không có “hòa khí”, người tu sĩ dường như mất niềm tin nơi cộng đoàn, họ dễ dàng đi tìm sự bù trừ, khỏa lấp từ các đối tượng bên ngoài, họ bay xa như “diều gặp gió” khi cơ hội đến. Họ không còn cảm nhận được niềm vui khi phải sống trong một cộng đoàn đã có nhiều xáo trộn, bất hòa, chia rẽ. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng xã hội, tin tức và hình ảnh độc hại cũng dễ lôi kéo người tu sĩ vào việc thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý trong khi đang đối diện với khủng hoảng.
c. Lời khấn vâng phục
Thời đại văn minh tiến bộ tạo điều kiện cho con người dễ dàng tiếp cận và tiếp thu kiến thức trong nhiều lãnh vực, người tu sĩ cũng học hỏi được nhiều kiến thức đạo – đời, khả năng lập luận đanh thép, lý lẽ sắc bén, lập trường vững vàng, nắm vững kiến thức chuyên môn nên lắm khi khó chấp nhận sai sót về phần mình. Vì danh dự, nhu cầu được công nhận quá cao nên đòi buộc người khác phải đáp ứng tự do của mình. Mặc khác, cũng không thiếu tu sĩ vấp phải thách đố của sự vâng phục là không nhận ra Chúa đang hiện diện nơi những người có trách nhiệm. Vâng phục của người tu sĩ không phải là hoàn toàn mất đi tự do cá nhân nhưng là biết phó thác và vâng theo thánh ý Chúa qua những vị hữu trách. Đức vâng phục ấy thay vì làm giảm bớt phẩm giá con người, thì lại làm cho con người trưởng thành bằng cách làm lớn mạnh quyền tự do làm con Thiên Chúa.
4. Thách đố về nhu cầu tâm linh trong bầu khí thời đại
Con người ngày nay đang bị cuốn vào cơn lốc toàn cầu hóa và của nền khoa học công nghiệp. Người tu sĩ từng ngày chạy đua với thời gian trong việc bận rộn với công tác mục vụ, việc học hành, sứ vụ giảng dạy, công tác xã hội..., lo cho vấn đề mưu sinh của cộng đoàn. Lắm khi thời gian dành cho sứ vụ đã lấn lướt hết hoặc chi phối các sinh hoạt thiêng liêng, khiến nhu cầu tâm linh của người tu sĩ đã không được đáp ứng đầy đủ và trọn vẹn. Trong khi cầu nguyện là sức sống của mọi tôn giáo, nhu cầu sống còn của mọi người, cũng chính là điều mà Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ: “ Anh em hãy canh thức và cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 25, 41). Cho thấy cầu nguyện là bổn phận cốt yếu của người Kitô hữu, đặc biệt là người tu sĩ. Thế nhưng, nhịp sống ồn ào, sôi động của xã hội hôm nay, người ta sợ tĩnh lặng, sợ bầu khí thánh thiêng, sợ những giây phút hồi tâm, tĩnh tâm, xét mình, người tu sĩ ít nhiều cũng mang những tâm trạng như thế vì cho rằng nó buồn tẻ, mất thời gian, chỉ là hình thức. Một khi chểnh mảng việc cầu nguyện lâu ngày dần, tương quan cá vị giữa người tu sĩ với Đức Giêsu Kitô nhạt nhẽo, vô vị, thì người tu sĩ dễ dàng gãy gánh giữa đường, bỏ ơn gọi tu trì ra đi tìm “ khung trời” mới là hoàn toàn có thể xảy ra.
Cũng trong thời đại này, hơn lúc nào hết, nhiều giáo phái mới ra đời, đặc biệt là những tôn giáo lớn có truyền thống tâm linh sâu xa, con người đang khát khao tìm đến cái mới mà Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” số 18, đã gọi tên những hiện tượng này là “cơn khát nước hằng sống” của con người hôm nay. Người tu sĩ trong thế giới phẳng của chiều hướng toàn cầu hóa, nếu không được trang bị sự hiểu biết về Đức Kitô và các giá trị Tin mừng vững chắc để biết phân định, nhận diện đâu là Thần khí, đâu là tà khí, thì cũng dễ bị cám dỗ đi tìm đối tượng khác ngoài Thiên Chúa. Khao khát đời sống tâm linh chính là cách thức con người phản tỉnh, phản kháng lại tình trạng trống rỗng của tâm hồn, đi tìm cho đời sống một ý nghĩa, một niềm hy vọng. Mỗi chúng ta, đều như nai khát mà chính Vịnh gia đã ví von hình ảnh con nai tìm dòng nước như tâm hồn con người khát khao hướng về Thiên Chúa:
“Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong
hồn con cũng trông mong
được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv. 41, 2)
II. Nhận diện những nguyên nhân và hệ lụy tác động đến đời thánh hiến.
1. Bầu không khí “kinh tế thị trường” vắng bóng Thiên Chúa.
Thế giới thay đổi, ý thức hệ ngày càng bành trướng nhưng nếu tâm của người tu sĩ không vững, sẽ là những cạm bẫy khiến cho người tu sĩ ngã gục trước những cuộc so tài hơn – thua giữa đời sống tu trì và đời sống khác. Trong đó Đức tin, tu đức không được xem trọng vì xã hội thiên về thực dụng, vật chất, tục hóa và vô thần. Sống trong đó, tu sĩ bị cám dỗ tìm tiện nghi thoải mái và ham hưởng thụ.
Khủng hoảng Đức tin của người tu sĩ có thể nói xuất phát một phần từ việc lơ là hoặc thiếu trung thành trong những tương quan thân mật với Chúa qua các giờ cầu nguyện, việc đọc Kinh Thánh, thậm chí là giải thiêng Kinh Thánh nghĩa là đọc mà không tin. Dường như Đức tin đang mất dần chỗ đứng trong suy nghĩ và hành động của Kitô hữu trong một xã hội mà những giá trị luân lý tự nhiên vừa đang bị chà đạp, vừa đang là mối cản trở cho thăng tiến cá nhân về kinh tế, xã hội, chính trị. Đặc biệt khủng hoảng Đức tin đến từ khám phá khoa học tự nhiên, con người tự hào về những gì mình làm được và nghi ngờ quyền năng của Thiên Chúa.
Khủng hoảng Đức tin có thể do chính những cử hành Đức tin với một khung cảnh thiếu bầu khí thánh thiêng, người ta đặt nặng hình thức phô bày và trình diễn hơn là giúp cho con người đi sâu và nội tâm (nến, hoa, ca hát, trang trí, đồ dùng phụng vụ, phẩm phục...). Phải chăng bầu khí phụng vụ đang ít nhiều bị tục hóa? Ưu tư phụng vụ nặng vẻ trình diễn tính hấp dẫn quần chúng hơn là diễn tả sự linh thánh, dấu chỉ thờ phượng và thánh hóa. Mầu nhiệm Đức tin dần dần bị loãng dần khi người ta cắt bớt phụng vụ chỗ này, đắp thêm sáng kiến vào chỗ kia để phụng vụ vui đẹp hơn. Người tu sĩ trong khi thi hành công tác tông đồ và sứ vụ tại các cộng đoàn Giáo xứ, bị cám dỗ diễn tả phụng vụ thờ phượng Chúa bằng các nghi lễ nặng màu hình thức, hoành tráng bên ngoài hơn là diễn tả một chiều sâu bên trong.
2. Đời sống tu trì thiếu vắng niềm vui và hy vọng
Thách đố cuộc sống tu sĩ hôm nay không phải là thách đố ngoài bức từng tu viện nhưng thách đố ngay bên trong bản chất con người là tinh thần của thế gian trong tâm hồn, nguyên nhân và tác động của nó ảnh hưởng không nhỏ lên cuộc sống của tu sĩ trẻ khiến nhiều người phải thốt lên: cũng có khác gì cuộc sống bên ngoài đâu, có khi còn tẻ nhạt hơn.
Thật vậy, không thiếu bạn trẻ chọn ơn gọi với nhiều động cơ chưa sáng đủ và mang tính thực dụng: vào nhà tu để được cuộc sống an bình, nhàn nhã ít sóng gió; để được ăn ngon mặc đẹp; được học hành với những bằng cấp cao; được lãnh những trọng trách quan trọng. Đến một lúc nào đó, cuộc sống trong nhà tu không được như ý muốn, họ không thấy niềm vui và hy vọng thật sự, họ bắt đầu đâm ra chán nản, thất vọng và quyết định cuộc đời mình bằng những lối rẽ có khi chưa trải qua thời gian biện phân và cầu nguyện.
Bầu khí đơn điệu trong cảnh sống của nhà tu cứ lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác, những quy luật định được lập trình sẵn không còn hợp thời, không thấu lý đạt tình có khi bóp nghẹt sáng kiến, suy tư của người trẻ, thậm chí triệt tiêu khả năng thích ứng của họ trong những môi trường đa dạng và phong phú. Chính vì cứ quanh quẩn với ngần ấy công việc, với một chương trình sống, thời khóa biểu thường niên khiến họ thấy chẳng có gì mới mẻ, thi vị cả.
Lối hành xử thiên vị và bất công, những bất đồng và xung đột giữa anh chị em trong cộng đoàn, giữa thế hệ cao niên với thế hệ trẻ, giữa bề trên và bề dưới. Những cách giải quyết vấn đề, phân công phân nhiệm, sắp xếp nhân sự thiếu sự tế nhị, bác ái, hợp lý, công minh đã phần nào khiến cho cộng đoàn gặp phải trở ngại cho tình hiệp thông.
Đời sống tu trì chưa thể hiện đúng nghĩa trong việc chia sẻ với nhau các giờ lao tác, giờ làm việc chung, giờ học tập, giờ cầu nguyện, giờ giải trí chung, tương giao bạn hữu, giao thoa của các thành viên nên nhiều anh chị em cảm thấy bị loại trừ, bị thành kiến, bị dán nhãn, bị lạc lõng ngay trong chính cộng đoàn mình sống.
Những lối diễn tả các lời khuyên Phúc Âm cách cứng nhắc không giúp cho tu sĩ trẻ có thể mở lòng, chia sẻ, trình bày, đối thoại được với các vị hữu trách và anh chị em đồng lý tưởng. Dần dần, hình thành trong họ một thái độ an phận thủ thường, kìm hãm cảm xúc, nín thở qua cầu, im lặng, không đóng góp ý kiến. Đó là những mối nguy hiểm mà chính các vị hữu trách khó có thể lường được hệ quả về sau.
Qua quan sát, chúng ta có thể thấy một số dấu hiệu tụt hậu về nhân cách của không ít tu sĩ khi hít thở trong bầu không khí thiếu niềm vui và hy vọng:
- Người tu sĩ được đào tạo trong bầu khí được quyết định thay về nhiều chuyện nên ít có khả năng tự quyết định những sự việc hay các vấn đề có liên hệ đến cuộc đời mình.
- Người sống đời thánh hiến cần phải sống tinh thần tuân phục, có khi khiến họ không phát huy được sáng kiến và năng lực của mình.
- Cuộc sống trong nhà tu với những chương trình, thời khóa biểu, nếp sống kỷ luật đã được cài đặt sẵn, nên dần dần người tu sĩ không còn khả năng nhạy bén để chọn lựa một cách trưởng thành.
Cuộc sống trong nhà tu được chuẩn bị đầy đủ mọi thứ, người tu sĩ chỉ việc xin phép và sử dụng, nhiều khi họ không thấy đó là trách nhiệm của mình với ích chung, nếu có điều bất trác thì đổ lỗi cho hoàn cảnh, cơ chế. Một môi trường được chuẩn bị đầy đủ cũng làm cho con người ít khả năng phấn đấu.
Luật lệ của Giáo hội và Tu hội đòi hỏi người tu sĩ đi trong khuôn khổ, điều ấy tốt nhưng có khi cũng khiến cho họ không nhạy bén, thiếu sự linh động, trở nên cứng nhắc, ít uyển chuyển và linh hoạt, dần trở nên sơ cứng và chai lỳ.
Đường hướng huấn luyện của Tu hội cũng giúp cho người thụ huấn có cơ hội rèn luyện bản thân nên tốt hơn, nhưng có khi khiến cho người thụ huấn không biết phân định, rụt rè, không dám quyết định hay can đảm nhận trách nhiệm của mình.
3. Tính ngôn sứ đời thánh hiến bị mờ nhạt
Trong cuộc gặp các bề trên thượng cấp Dòng nam tại Roma ngày 29/11/2013, khi được hỏi đâu là điều mà Đức Thánh cha mong đợi nhất nơi người tu sĩ, Đức Phanxicô trả lời: “cha mong muốn chúng con trở thành những ngôn sứ”. Là ngôn sứ tức là người giới thiệu và làm chứng cho sứ điệp mà Thiên Chúa đang muốn nói với con người thời đại. Vai trò ngôn sứ đều dành cho tất cả mọi Kitô hữu, điều quan trọng là người tu sĩ làm ngôn sứ theo cách của riêng mình:“việc theo Chúa Kitô cách triệt để không phải dành riêng cho các tu sĩ, mọi người đều được mời gọi theo Đức Kitô cách triệt để. Nhưng các tu sĩ đi theo Chúa cách đặc biệt, đó là cách thức làm ngôn sứ. Một tu sĩ không bao giờ được khước từ tính ngôn sứ”
Tính ngôn sứ của người sống đời thánh hiến bị mờ nhạt vì họ không có khả năng say mê Thiên Chúa, trả lời cho thế giới biết rằng Đức Giêsu có phải là tình yêu thứ nhất và duy nhất như họ đã tuyên các lời khuyên Phúc Âm không? Say mê con người nghĩa là mang một nỗi đam mê đối với đồng loại, gần gũi để chung chia niềm vui và nỗi đau của con người, nhất là người nghèo. Thế giới có nhiều thứ để trình diễn khiến hình ảnh Thiên Chúa bị lu mờ, con người có muốn nhận diện dung mạo của Chúa cũng khó có thể nhận ra được, bởi đó cuộc sống của người tu sĩ phải diễn tả tính ngôn sứ thật sự. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã cho biết điều ngài chờ mong là “ các con hãy đánh thức thế giới” bởi vì điểm làm nên đặc tính đời sống Thánh hiến là ngôn sứ. Ngài đã tóm gọn “chiều kích ngôn sứ” của đời Thánh hiến như sau: “Một ngôn sứ nhận được từ Thiên Chúa khả năng soi bói lịch sử trong đó họ sống và giải thích các biến cố: như là các người tuần canh coi chừng trong đêm tối và biết khi nào hừng đông xuất hiện (xem Is 21, 11-12). Biết Thiên Chúa và biết con người nam và người nữ, là những người anh và những người chị của mình. Họ có khả năng phân định và cũng có khả năng tố cáo sự dữ của tội và các bất công, bởi vì sống tự do, họ không phải trả lời cho các người chủ nhân khác ngoài Thiên Chúa, họ không có tư lợi nào ngoài điều thuộc về Thiên Chúa. Ngôn sứ thường đứng về phía các người nghèo và các người không được bênh vực, bởi vì họ biết rằng chính Thiên Chúa đứng về phía họ”.[7]
III. Khơi niềm hy vọng để củng cố Đức tin.
1. Hoán cải sống mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa
Ơn gọi Thánh hiến của các linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô từ những cuộc đối thoại chân thành và tin tưởng, dần dần đi vào trong mối hiệp thông sâu sắc với Ngài. Muốn được như thế bản thân mỗi người tu sĩ cần tự huấn luyện để hoán cải, trở về và sống lại Đức tin nguyên tuyền và mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa. Trước tiên, điều cần thiết là chính mỗi người sống đời Thánh hiến phải lớn lên trong kinh nghiệm về Đức tin. Đức tin thách đố con người khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa ngay trong cuộc sống Hiến dâng của mình, ngay giữa những thăng trầm của thực tại lịch sử và đời sống hiện sinh của con người, cả việc chết đi cho “cái tôi” để sống trọn vẹn căn tính đời tu và con người phải trải qua những kinh nghiệm hoán cải mình thật sự.
Kinh nghiệm cho thấy “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Những thách đố Đức tin là những thách đố có tính cách thử thách xem ta có lòng mến Chúa thực không, xem ta có chắc chắn dám theo Chúa dưới danh xưng là Kitô hữu thực không, xem ta có đủ can đảm, đủ dũng khí, đủ chịu đựng, để theo Chúa trên hành trình Thập Giá không? Đó là những hoàn cảnh khó khăn mà ta phải chịu trong đời sống Đức tin: những gian nan, bắt bớ, giam cầm, hành hạ, lăng nhục, hoạn nạn, khinh khi, thóa mạ vì Đức tin. Lòng tin của chúng ta phải được nuôi dưỡng để ngày càng được gia tăng và lòng tin này không loại trừ là không có khổ đau, thử thách. Cũng có lúc sau những mệt mỏi của sinh hoạt đơn điệu của nhà tu, sau những va chạm với những anh chị em trong cộng đoàn, sau những thất bại của bổn phận được trao, sau những khổ đau vì bị hiểu lầm, chỉ trích, sau những đau đớn của bệnh tật trong kiếp người, người tu sĩ cảm thấy mệt mỏi, chán nản, buông xuôi. Có thể Chúa để những đau khổ, thử thách xảy ra giúp cho người tu sĩ có cơ hội để được thanh luyện. Khổ đau, bất ổn trong cuộc sống của những người muốn theo Chúa không phải là không có nhưng điều đáng nói là chúng ta có đủ can đảm để tiến vào hành trình thanh luyện và trực diện chính mình để có thể giải đáp những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi đang làm gì? Tại sao tôi lại chọn nơi này? Căn tính của tôi ở chỗ nào? Tôi có muốn hoán cải để thay đổi không?
Trong quá trình thanh luyện, chúng ta cần nuôi dưỡng lòng tin bằng đời sống cầu nguyện chân thành mỗi ngày, bằng gắn bó với Đức Kitô trong đời sống kinh nguyện. Vì tất cả con người của Đức Kitô chìm đắm trong kinh nguyện, Người kết hợp mật thiết với Chúa Cha trong mọi việc làm, cho dù ở đâu Người vẫn có thể cầu nguyện. Ngài đã khẳng định “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Ngài luôn luôn dành thời gian trong ngày để sống đối thoại với Cha. Cầu nguyện và sống đối với Đức Giêsu cũng như hơi thở và nhịp đập của trái tim. Người Kitô hữu không thể được coi là sống nếu không cầu nguyện và hành động, nhất là hành động vì lòng mến Chúa yêu người. “Chính thầy là con đường và sự thật và là sự sống không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 4,16). Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, khi con người đến với Ngài, con người được cảm thông, nâng đỡ, khuyến khích và Ngài đưa con người đến với Cha mình. Vậy để gia tăng đời sống thiêng liêng, không có phương thế nào hữu hiệu bằng sự đối thoại thường xuyên với Thiên Chúa và lòng trung thành với tác động của ân sủng Ngài. Với người nữ tu Mến Thánh Giá, đời sống thiêng liêng được cụ thể hóa bằng việc tập nhìn vào Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh với một tình yêu phi thường mang đặc tính tri thức, cảm ái và thực tiễn; vun trồng đời sống kinh nguyện nội tâm phong phú như suy niệm, nguyện ngắm cảm ái, và chiêm ngưỡng bằng cái nhìn đơn sơ thuần khiết; cử hành phụng vụ và cung chiêm Thánh Thể với thái độ tôn thờ sâu thẳm, trang nghiêm xứng với sự cao cả của Thiên Chúa; đặt mình thường xuyên dưới tác động của Chúa Thánh Thần để trở nên con thảo của Chúa Cha và được ơn soi sáng cho sứ mạng tông đồ. Để gắn bó với Đức Kitô, hằng ngày người tu sĩ phải dành thời gian suy gẫm Lời Chúa, không nên bỏ hoặc cắt xén giờ thiêng liêng vì những lý do không chính đáng. Cần trung thành với việc đọc, chia sẻ Lời Chúa và đem áp dụng trong cuộc sống. Trung thành các giờ chung của cộng đoàn: Thánh lễ, kinh phụng vụ, suy gẫm, chầu Thánh Thể, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm, thực hiện tất cả với trọn con tim yêu mến. Có như thế mới có đủ nội lực vượt qua những khó khăn, thử thách. Một lòng tin như thế “Đức tin làm cho cái nhìn bên trong được sắc xảo, và giúp cho trí tuệ khám phá sự hiện diện sinh động của Đấng An bài trong diễn tiến của các biến cố.”[8]. Ngoài ra, người tu sĩ cũng không ngừng thường xuyên gặp gỡ Thiên Chúa khoan dung, ý thức tội lỗi của mình, mở ra các tương quan liên vị với tha nhân bằng những cuộc hoán cải và thanh luyện nơi bí tích Hòa Giải, qua các giờ thiêng liêng riêng hoặc chung với cộng đoàn. Vấn đề tục hóa trong tương quan với người Thánh hiến không chỉ còn là sự tục hóa bên ngoài mà: “thử thách to lớn của đời sống dâng hiến hôm nay là sự tục hoá bên trong của đời sống dâng hiến. Đây là lúc để thừa nhận những sai lầm đã phạm. Các cộng đồng tu trì phải trở về với nguồn của đặc sủng thành lập và với những giá trị Tin Mừng. Phải trả lại vị trí trung tâm của đời sống Thánh hiến cho đời sống cầu nguyện, đời sống huynh đệ cộng đoàn, ơn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.... Tái khám phá những giá trị căn bản này để sống và làm chứng trong thế giới: đó là cách thế trao ban cho đời sống tu trì một đà vươn lên mới” [9].
2. Khao khát sống niềm tin trọn vẹn và vươn đến niềm hy vọng.
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo khẳng định: Niềm khao khát Thiên Chúa được ghi khắc trong trái tim con người bởi vì con người được tạo dựng bởi Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới gặp được chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm[10]. Thánh Augustino cũng nói lên nỗi khắc khoải của chính mình trong một lời nguyện tương tự: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Linh hồn con khắc khoải khôn nguôi cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.” Nỗi khắc khoải ấy hướng con người đến Thiên Chúa và chính bản thân người tu sĩ cần phải tự mình nỗ lực không ngừng.
Nhìn lại hành trình Đức tin của dân Chúa, từ Cựu Ước tới Tân Ước, nhiều mẫu gương sống niềm tin vượt qua thử thách, tiêu biểu nơi Tổ phụ Apraham và Đức Maria. Sự vâng phục ra đi của Tổ phụ Apraham là khởi đầu của một cuộc xuất hành dẫn ông về phía tương lai không thể lường trước được, một cuộc sống mới với lời hứa của Ngài: Miêu duệ ngươi sẽ rất đông đúc, ngươi sẽ là cha của một dân vĩ đại (x. St 13, 16). Ngoài ra, hai tiếng “xin vâng” của Mẹ Maria là khởi điểm của đời sống Đức tin nơi chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, và rồi sự tiến triển Đức tin ấy được tăng trưởng, trải qua những hồi thử thách, những cảnh khổ đau, cảnh chia ly của cuộc sống hai mẹ con, đặc biệt là khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ cũng phải tin Con của Mẹ là Con Thiên Chúa đầy quyền năng mà phải chết cách tủi nhục. Có thể nói rằng chỉ có cái nhìn Đức tin, Mẹ mới có thể đón nhận tất cả mọi biến cố xảy ra trong tinh thần của Đức tin trọn hảo, vâng phục, tín thác và tự nguyện: “Này tôi là tôi tớ Chúa” (Lc 1, 38)
Là những người sống đời thánh hiến, trong một thế giới mà người trẻ mất hết cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, người thánh hiến đang đối diện với một thách đố lớn lao trong việc làm chứng cho niềm tin. Để có thể vượt qua thách đố này, trước hết là học với Chúa Kitô cho biết thao thức, mong muốn và khao khát những điều tốt lành, thánh thiện cho chính mình. Đồng thời, phải trở thành những chứng nhân đầy sức thuyết phục của những thao thức ấy, về một Thiên Chúa Tình Yêu và về sự sống mai sau. Tuy nhiên, niềm tin và hy vọng ấy không phải lúc nào cũng “ thuận buồm xuôi gió”. Một số người, đôi khi cảm nhận cuộc sống là tốt đẹp trong khi có những người, trong những cảnh huống nào đó, lại cảm thấy cuộc đời ngập tràn những đau khổ mà họ phải nỗ lực vượt qua và cuối cùng là cái chết. Cuộc sống vốn phức tạp và nhiều thách đố khiến con người rất nhiều lần phải đối diện với những “khủng hoảng”, khủng hoảng niềm tin và bế tắc trong tuyệt vọng. Vì trong lúc sầu khổ này thì nhận thức về sự hiện diện của Thiên Chúa không còn ở trong suy nghĩ của họ, do đó rất cần một người đồng hành giúp khơi lên niềm tin và hy vọng nơi các cá nhân đang trong tình trạng “mong manh, dễ vỡ”. Sự thấu hiểu và chữa lành trong đồng hành thiêng liêng diễn ra chính yếu qua tương quan và đối thoại giữa Thiên Chúa và người thụ huấn, thứ đến qua tương quan và đối thoại giữa người đồng hành và người thụ huấn. Khởi đi từ chính kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa mà người đồng hành hướng dẫn người thụ huấn tiến những bước xa trên hành trình tâm linh. Nhờ tin mà việc đồng hành thiêng liêng mới hy vọng đạt kết quả[11].
Để làm mới lại niềm tin và niềm hy vọng, một điều không kém phần quan trọng đó chính là tình huynh đệ cộng đoàn cần được nuôi dưỡng chu đáo và đúng cách thức. Giáo hội đã luôn đề cao vai trò của cộng đoàn trong việc chăm sóc và bảo vệ ơn gọi của mỗi thành viên trong cộng đoàn, nó như chất keo gắn kết, hàn gắn những vết nứt, băng bó những vết thương, sát trùng những mụn nhọt bị mưng mủ và chữa lành những thương tổn, tăng sức đề kháng phòng khi “ trái gió, trở trời” của đời sống cộng đoàn mà Huấn thị Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn của Bộ các Hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, số 32 đề cập “Một phương diện cần chăm sóc đặc biệt, đó là đời sống huynh đệ trong cộng đoàn. Phải nuôi dưỡng nó bằng lời kinh nguyện trong cộng đoàn, bằng việc sốt sắng đọc Lời Chúa, tích cực tham dự các bí tích Thánh Thể và Hòa giải, đối thoại huynh đệ và hiệp thông chân thành giữa các thành viên, sửa lỗi cho nhau, nhân từ đối với anh chị em vấp ngã phạm tội, và chia sẻ các trọng trách. Tất cả các điều ấy kèm theo một chứng từ vui vẻ và đầy thuyết phục về một cuộc sống giản đơn bên cạnh người nghèo và một sứ mạng ưu tiên những vùng ngoại biên. Kết quả mục vụ các ơn gọi tùy thuộc mạnh mẽ vào việc canh tân đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, có thể nói “hãy đến mà xem” (Ga 1,39) cũng như vào lòng kiên định của các anh chị em trẻ và lớn tuổi hơn; bởi vì khi một anh em hay chị em không tìm thấy sự nâng đỡ trong đời sống thánh hiến bên trong cộng đoàn, họ sẽ đi tìm kiếm nó ở bên ngoài, với tất cả những gì điều ấy hàm chứa”.
Phải làm một cuộc song hành giữa thực hành Đức tin và lý thuyết như lời nhắn nhủ của Thánh Giacôbê: Hỡi người đầu óc rỗng tuếch: bạn có muốn biết rằng Đức tin không có hành động là vô dụng không? Ông Abraham tổ phụ chúng ta đã chẳng được nên công chính nhờ hành động, khi ông hiến dâng con mình là Isaac trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó, Đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà Đức tin nên hoàn hảo (Gc 2,20-22).
Như thế người Thánh hiến sống Đức tin cách hoàn hảo và cụ thể bằng chính đời sống gương sáng cụ thể của mình: đời sống ngay chính, lương thiện, không ác ý, không lừa dối, trung thành với Chúa và Giáo hội, dấn thân phục vụ cho những nhu cầu mục vụ Đức tin… không những góp phần Phúc âm hóa người khác mà còn chứng tỏ cho người khác thấy mình là người thực sự tin có Thiên Chúa. Những thử thách và những đau khổ đang làm xáo trộn đời sống Thánh hiến làm cho chúng ta không đưa ra một lời phê phán hay kết án nhưng là thái độ thông cảm, liên đới và chia sẻ những thách thức, gánh vác trách nhiệm cùng nhau vượt qua trong tình yêu mến. Với cái nhìn Đức tin thì ngay cả điều tiêu cực cũng là cơ hội cho chúng ta nhận ra khuôn mặt Đức Kitô Chịu Đóng Đinh và bị bỏ rơi, Đấng đã nhận lấy những giới hạn của chúng ta đến mức “mang lấy tội lỗi chúng ta vào thân thể mà đưa lên cây Thập Giá” (1 Pr 2, 24). Trong bài chia sẻ trong Thánh lễ Vọng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời tối 14.8.2013, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli nhắn nhủ với cộng đoàn tham dự tại Thánh Địa Lavang: “niềm tin vào Thiên Chúa mở ra trước mắt chúng ta một chân trời hy vọng vững chắc, một chân trời vắng bóng thất vọng. Niềm tin ấy cho thấy một nền móng kiên cố, trên đó, cuộc đời mỗi người được xây lên mà không chút sợ hãi; niềm tin ấy đòi hỏi một sự phó thác đầy tin tưởng vào bàn tay của Đấng Tình Yêu, cũng là Đấng đang cầm cân nẩy mực thế giới“.
3. Giáo hội đồng hành với người thánh hiến
Người tu sĩ thật khó mà trung tín khi bước đi đơn độc, hay được hướng dẫn bởi các anh chị em không có khả năng biết lắng nghe chăm chỉ và kiên nhẫn, hoặc không có kinh nghiệm về đời sống thánh hiến thích hợp. Người thánh hiến cần những anh chị em thông hiểu nhiều về đường lối của Chúa để có thể thực hiện những gì Đức Giêsu đã làm với các môn đệ thành Emmaus: đồng hành với họ trên đường đời và trong những giây phút dao động, đồng thời thắp lên trong họ ngọn lửa Đức tin và ánh sáng hy vọng qua Lời và Thánh Thể Chúa (Lc 24,13-35). Nhiều ơn gọi bị mất đi chỉ vì thiếu những người đồng hành có chất lượng. Giáo hội được Thiên Chúa ủy thác cho trách nhiệm hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất để giúp cho người sống đời thánh hiến sống vui và trọn vẹn với ơn gọi của mình. Đó là một trách nhiệm vừa lớn lao vừa nặng nề. Giáo hội cũng tạo điều kiện để hướng dẫn mỗi tu sĩ đảm nhận trách nhiệm tự huấn luyện mình mỗi ngày với dự phóng cá nhân và chương trình của Tu hội. Đồng thời tạo điều kiện để cộng đoàn là môi trường giúp cho mọi tu sĩ thấy tin tưởng được, nơi tự do diễn tả nhu cầu, tư tưởng, tình cảm. Quan tâm đến những quan hệ liên vị, khả năng giải quyết xung đột, nâng đỡ người gặp khủng hoảng. Giáo hội cũng tùy cơ cấu tổ chức của Tu hội mà sắp xếp người đồng hành và mô hình đồng hành tùy theo hoàn cảnh và đối tượng. Thiết nghĩ, trong hành trình đồng hành, cả người người đồng hành và người được đồng hành cần có những thái độ:
- Với người được đồng hành:
- Tin tưởng: Đây là yếu tố cần thiết và quan trọng vì niềm tin là yêu cầu cần thiết để hai người có thể tương quan với nhau bền lâu, để có thể thanh thản tin tưởng nhau. Nếu có người đồng hành đúng nghĩa sẽ giúp có người thụ huấn mở lòng với họ như là những người trung gian của Thiên Chúa, để các vị này với sự hướng dẫn của Thiên Chúa và khả năng chuyên môn, giúp cho ứng sinh cách hiệu quả. Tin tưởng Chúa hiện diện qua người đồng hành, tin tưởng người đồng hành sẽ biết lắng nghe với sự thấu cảm, biết phân tích những điều được chia sẻ dưới ánh sáng của Lời Chúa và thần khí, biết được những vấn đề của bản thân mình sẽ được lắng nghe và có giải pháp tốt nhất, chắc rằng người thụ huấn sẽ trải lòng, sẽ chia sẻ những tâm tư, thao thức, khát vọng, nhu cầu và ngay cả những nút thắt họ đang bị mắc kẹt trên con đường tìm Chúa trong ơn gọi tu trì. Khi đã tin tưởng, thì người thụ huấn sẽ dễ dàng bộc bạch nỗi lòng, lúc đó người đồng hành mới biết được họ đang đứng ở đâu, gặp khúc mắt gì, mức độ thế nào, giúp họ cách nào.
- Cởi mở: Một khi đã đi qua giai đoạn tin tưởng, người tu sĩ sẽ dễ dàng cởi mở, sẵn sàng bộc lộ thế giới nội tâm của mình, những khúc mắc, khó khăn, tổn thương và trở ngại, những lo âu và muộn phiền, cả sở trường và sở đoản..., để được giải gỡ và chữa lành.
- Thái độ cộng tác: Là tinh thần hợp tác, sẵn sàng cộng tác với người khác để lớn lên, để học từ mọi người, học từ hoàn cảnh và trưởng thành hơn với một thái độ ngoan ngùy, dễ dạy bảo. Là để cho Chúa hướng dẫn, thúc đẩy, soi sáng qua sự hướng dẫn của người đồng hành và sẵn sàng thực hiện theo phương pháp mà họ đưa ra.
Chắc chắc trong nghệ thuật đồng hành sẽ có nhiều yếu tố để giúp cho ứng sinh. Tuy nhiên, chỉ xin được nêu lên một yếu tố mà bản thân người viết thấy ưu tư vì chưa được thực hiện tốt nơi các cộng đoàn tu trì. Yếu tố này nếu được thực hành tốt bởi những người đồng hành có trách nhiệm thì sẽ giúp ứng sinh cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái và sống triển nở ơn gọi của mình. Đó là việc lắng nghe thấu cảm mà người đồng hành cần có:
- Là chú tâm lắng nghe tu sĩ trẻ trình bày về cuộc đời của họ, con người của họ, điểm tốt lẫn điểm chưa tốt, mặt mạnh cũng như mặt yếu, điểm sáng cũng như điểm tối, các vấn đề, nhu cầu, thao thức và những mối bận tâm của họ. Đó là những vấn đề họ gặp phải mà không giải quyết được có thể nó liên quan đến vấn đề Đức tin, luân lý, việc phân định để nhận ra ý Chúa và chọn lựa ơn gọi...Việc khó khăn khi sống các lời khuyên Tin Mừng, đau khổ khi đối diện với yếu đuối của phận người, đau đớn của bệnh tật, sức khỏe, những lo lắng khi giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống cộng đoàn, nhiều vấn đề nhiêu khê trong khi thi hành sứ vụ. Có thể qua những vấn đề gặp phải, Đức tin của họ rơi vào khủng hoảng vì không thấy được quyền năng của Thiên Chúa trước sự dữ đang xảy ra hay đường lối của Chúa thể hiện trên đời mình như thế nào. Với họ, Thiên Chúa lúc này chỉ là Thiên Chúa vô tâm, vô tình, để cho họ gặp phải những thử thách quá sức chịu đựng. Chính trong những hoàn cảnh đó, người đồng hành cho họ thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa là Đấng luôn tôn trọng tự do của con người, một Thiên Chúa luôn để cho sự dữ xuất hiện để thanh luyện niềm tin con người, một Thiên Chúa luôn đề cao khả năng của con người. Nơi đây tưởng chừng như Thiên Chúa vắng mặt, làm thinh nhưng chính qua Thập Giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa bộc lộ tình yêu lớn lao với mức độ tình yêu mạnh hơn sự chết qua cuộc phục sinh của Người.
- Là xem tu sĩ trẻ nghĩ gì về Giáo hội, về Tu hội để biết phải thay đổi như thế nào. Đó là những thao thức về sứ mạng của Giáo hội trước những tiến bộ nhanh chóng của thời đại, trước làn sóng thay da đổi thịt của xã hội. Đó là những ưu tư của người trẻ khi họ luôn muốn tìm ra phương cách nào giúp nhau sống ơn gọi tu trì theo đúng Đặc sủng. Họ cũng có tầm nhìn đến lợi ích, nhu cầu của thế giới, của người nghèo nên không ngừng thao thức và trăn trở với các công tác bác ái xã hội.
- Là xem tu sĩ trẻ nhận định về Giáo hội với những bất toàn và bất cập, chậm chạp trong việc tiếp cận và giải quyết những vấn đề cấp bách của Giáo hội cũng như xã hội. Họ nhận thấy có những vị hữu trách ứng xử với người khác không xứng đáng với chức vụ của mình, ít nhiều cũng lạm dụng quyền bính cho những mục đích không ngay lành, quan liêu trong cung cách phục vụ, ứng xử...Người đồng hành không thể xem họ là thành phần nổi loạn, chống đối nhưng nhận ra nơi họ là những người mang nặng mối ưu tư, trăn trở với sứ mạng của Giáo hội, thiện chí muốn xây dựng Giáo hội tốt hơn. Việc người đồng hành cần ứng xử khôn ngoan là đối thoại và tích cực lắng nghe tiếng nói của họ dù ý kiến đó có nông cạn và phiến diện, nhưng đó là thiện chí đơn thành của họ. Chắc chắn tinh thần sáng tạo và sáng kiến của họ giúp cho Giáo hội giữ được vẻ tươi mới, năng động, hợp thời và hấp dẫn với người trẻ hơn.
- Là giúp tu sĩ trẻ nhận ra Chúa hoạt động nơi cuộc đời họ qua các biến cố. Là giúp họ quay vào lòng mình để khám phá ra tình thương của Chúa luôn mãi hoạt động trong cuộc đời mình với biết bao ân huệ nhận được. Nhận ra được sự quan phòng của Chúa luôn đồng hành với họ ngay cả những lúc gặp khó khăn, thử thách, lúc vấp ngã, lúc cô đơn. Giúp họ khám phá ra những chi tiết nhỏ trong cuộc đời được Chúa an bài, để họ cảm thấy vui tươi và triển nở khi sống trung tín với sứ mạng được trao. Huấn luyện họ trở thành những người tu sĩ quân bình và bền vững qua mọi tình huống của đời sống và sứ vụ đồng thời xác định việc chọn lựa để trở thành tu sĩ đích thực phải hoàn toàn tự do và trung thành. Người đồng hành phải là một người bạn đi bên cạnh họ.
Tạm kết
Người tu sĩ chọn Chúa và dấn thân cho công cuộc loan báo Tin mừng, chắc chắn khó khăn và thách đố là điều không tránh khỏi. Chính khó khăn đó là những cơ may cho người tu sĩ trẻ trưởng thành hơn trong Đức tin, trong niềm vui và hy vọng, trong vai trò ngôn sứ và trong sứ vụ. Ngày nay người tu sĩ được mời gọi hội nhập với thế giới để làm chứng cho niềm tin vào Đức Giêsu Kitô và phục vụ cho con người ở mọi nơi, đặc biệt tại những nơi sa mạc thiêng liêng. Trong sa mạc này, cần phải có những con người có Đức tin, mà bằng mẫu gương đời sống của họ, cho thấy con đường tiến về Đất Hứa và như thế nắm giữ, thức tỉnh niềm hy vọng. Đức tin được sống mở tâm hồn ra cho Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng giải thoát khỏi sự bi quan.[12] Vì thế, người Thánh hiến được kêu gọi dám từ bỏ giá trị vật chất đang ngăn cản bước chân tiến tới sự hoàn thiện của họ để chọn cho mình một lý tưởng sống có ý nghĩa, mục đích và thật sự hợp với Thánh Ý. Làm sao đủ dũng mãnh để vẫn trung thành mà không vấp ngã chối Chúa trước những khó khăn và thử thách vì Đức tin trong cuộc đời. Làm sao đủ kiên cường đứng vững trước những mời mọc, nhu cầu hưởng thụ vật chất, tiện nghi của lợi lộc, danh vọng trần thế. Làm sao lòng tin đủ mạnh để giữ được tâm hồn ổn định và an bình, để có thể nói với Chúa rằng “ bỏ Thầy con biết đến với ai”, và trung thành với lý tưởng của đời Thánh hiến mình đã chọn, để người khác nhìn vào gương sống Đức tin kiên trung và mạnh mẽ của những người sống đời Thánh hiến, họ sẽ có thêm niềm tin và hy vọng. Trách nhiệm huấn luyện và triển nở ơn gọi Thánh hiến phải chăng chỉ là bổn phận của chính người tu sĩ trẻ, chứ không liên quan gì đến bạn, đến tôi, đến chúng ta?
[1] Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người, 04-3-1979, số 14
[2]Trích bài nói chuyện của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI với các thành viên Thánh bộ Tín Lý ngày 27. 01. 2012
[3] Trích bài phát biểu của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hòa bình ngày 27.10.2011
[4] Đức Thánh cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 64
[5] Hiến chương Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, điều 36
[6] http://xuanbichvietnam.net/trangchu/moi-nam-co-hon-3000-tu-si-roi-bo-doi-song-thanh-hien/
[7] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông thư gởi tất cả các người đang sống đời thánh hiến nhân dịp cử hành Năm của Đời sống thánh hiến, II.2
[8] Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và Lý trí (Fides Et Ratio), 1998, số 16
[9] Cuộc phỏng vấn Đức Hồng Y Rodé, Tổng trưởng Bộ Tu sĩ, do Nhật báo Osservatore Romano thực hiện ngày 8/11/2007.
[10]x.GLHTCG, số 27
[11] x. Lm. Phạm Quốc Văn, OP., Trên đường Emmaus - Một thoáng nhìn về việc đồng hành thiêng liêng, tr. 52
[12] x. Bài giảng khai mạc Năm Đức tin của Đức Giáo hoàng Bênêdictô ngày 11.10.2012.